Site uses cookies to provide basic functionality.

OK
EZRA
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Prev Up Next Toggle notes
Chapter 1
Ezra VietNVB 1:1  Năm thứ nhất đời Si-ru vua Ba-tư, để ứng nghiệm lời Đức Chúa Trời phán qua Giê-rê-mi, Đức Chúa Trời cảm động lòng Si-ru vua Ba-tư ra sắc chỉ rao truyền khắp đế quốc như sau:
Ezra VietNVB 1:2  Si-ru vua Ba-tư tuyên cáo: Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời trên trời cao, đã ban cho ta tất cả các vương quốc trên đất này. Nay Ngài truyền ta xây đền thờ cho Ngài tại Giê-ru-sa-lem, trong xứ Giu-đa.
Ezra VietNVB 1:3  Giữa vòng các ngươi, bất cứ người nào thuộc về toàn thể dân sự Ngài, cầu xin Đức Chúa Trời người ở cùng ngươi, đều được phép trở về Giê-ru-sa-lem trong xứ Giu-đa, xây lại đền thờ Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đức Chúa Trời ngự tại Giê-ru-sa-lem.
Ezra VietNVB 1:4  Dân bản xứ nơi tất cả những người Giu-đa còn sống sót cư trú, bất cứ nơi nào, phải tiếp tế bạc, vàng, của cải, và gia súc cho họ, cùng với những của lễ tự nguyện dâng hiến cho đền thờ Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem.
Ezra VietNVB 1:5  Bây giờ, các trưởng tộc của Giu-đa và Bên-gia-min, các thầy tế lễ và người Lê-vi, hết thảy những người nào được Đức Chúa Trời cảm động, đều chuẩn bị đi về Giê-ru-sa-lem xây đền thờ Đức Chúa Trời.
Ezra VietNVB 1:6  Tất cả những người lân cận đều tiếp trợ cho họ về mọi mặt, nào bạc, vàng, của cải, gia súc, và vô số những báu vật, chưa kể tất cả những lễ vật tự nguyện hiến dâng.
Ezra VietNVB 1:7  Vua Si-ru cũng trả lại những dụng cụ trong đền thờ Đức Chúa Trời mà vua Nê-bu-cát-nết-sa đã đem ra khỏi Giê-ru-sa-lem về đặt trong miếu thần của vua.
Ezra VietNVB 1:8  Si-ru vua Ba-tư truyền cho Mít-rê-đat, giám đốc ngân khố, đem các dụng cụ ấy ra kiểm kê và trao lại cho Bết-ba-xa, lãnh tụ Giu-đa.
Ezra VietNVB 1:9  Đây là bảng kiểm kê các dụng cụ ấy:đĩa vàng \tcr2 30đĩa bạc1.000đĩa bạc pha, \tcr2 29
Ezra VietNVB 1:10  chén vàng30chén bạc loại hạng nhì, \tcr2 410dụng cụ khác1.000
Ezra VietNVB 1:11  Tổng cộng số dụng cụ vàng và bạc là 5.400 món. Sết-ba-xa mang theo tất cả những dụng cụ ấy khi cùng đoàn người lưu đày từ Ba-by-lôn trở về Giê-ru-sa-lem.