Toggle notes
Chapter 1
II K | VietNVB | 1:2 | Ở Sa-ma-ri, vua A-cha-xia từ lan can trên lầu té xuống và bị thương; nên vua truyền các sứ giả đến và bảo: Hãy đi, cầu vấn Ba-anh Xê-bụt, thần của Éc-rôn, để hỏi xem ta có được lành khỏi thương tích nầy chăng? | |
II K | VietNVB | 1:3 | Nhưng thiên sứ của CHÚA bảo Ê-li, người Thi-sê-be rằng: Hãy chỗi dậy, đi đón các sứ giả của vua Sa-ma-ri, và bảo họ: Có phải trong Y-sơ-ra-ên không có Đức Chúa Trời sao, mà ngươi đi cầu vấn Ba-anh Xê-bụt, thần của Éc-rôn? | |
II K | VietNVB | 1:4 | Vậy bây giờ CHÚA phán như vầy: Ngươi sẽ không xuống khỏi giường bịnh ngươi đang nằm, nhưng ngươi chắc chắn sẽ chết. Ê-li bèn đi. | |
II K | VietNVB | 1:6 | Họ đáp: Có một người gặp chúng tôi và bảo chúng tôi đi trở về tâu với vua rằng: CHÚA phán như vầy: Có phải trong Y-sơ-ra-ên không có Đức Chúa Trời sao mà ngươi sai người đi cầu vấn Ba-anh Xê-bụt, thần của Éc-rôn? Vì thế ngươi sẽ không xuống khỏi giường bịnh ngươi đang nằm, nhưng ngươi chắc chắn sẽ chết. | |
II K | VietNVB | 1:7 | Vua hỏi họ: Người ra đón gặp các ngươi và nói với các ngươi những lời ấy là người như thế nào? | |
II K | VietNVB | 1:8 | Họ tâu: Đó là một người mặc một áo choàng bằng da thú đầy lông, lưng thắt một dây nịt da.Vua nói: Ấy là Ê-li, người Thi-sê-be. | |
II K | VietNVB | 1:9 | Đoạn vua sai một sĩ quan dẫn năm mươi quân sĩ đến gặp Ê-li. Lúc ấy Ê-li đang ngồi trên một đỉnh đồi. Viên sĩ quan bảo Ê-li: Hỡi người của Đức Chúa Trời, vua bảo ông: Hãy xuống! | |
II K | VietNVB | 1:10 | Nhưng Ê-li trả lời viên sĩ quan: Nếu ta là người của Đức Chúa Trời thì lửa từ trên trời sẽ giáng xuống thiêu hủy ngươi và năm mươi người đi với ngươi đi. Tức thì lửa từ trên trời giáng xuống thiêu hủy viên sĩ quan đó và năm mươi người đi với ông ta. | |
II K | VietNVB | 1:11 | Vua lại sai một viên sĩ quan khác với năm mươi quân sĩ khác đến gặp Ê-li. Viên sĩ quan ấy nói: Hỡi người của Đức Chúa Trời, đây là lịnh của vua: Hãy xuống mau! | |
II K | VietNVB | 1:12 | Nhưng Ê-li trả lời viên sĩ quan ấy: Nếu ta là người của Đức Chúa Trời thì lửa từ trên trời sẽ giáng xuống thiêu hủy ngươi và năm mươi người đi với ngươi đi. Tức thì lửa từ trên trời giáng xuống thiêu hủy viên sĩ quan đó và năm mươi người đi với ông ta. | |
II K | VietNVB | 1:13 | Vua lại sai một viên sĩ quan nữa với năm mươi quân sĩ nữa đến gặp Ê-li. Viên sĩ quan thứ ba đi lên, quỳ xuống trước mặt Ê-li và van nài: Hỡi người của Đức Chúa Trời, nguyện mạng sống tôi và mạng sống của năm mươi người đi với tôi là quý báu trước mặt ông. | |
II K | VietNVB | 1:14 | Kìa, lửa từ trời đã giáng xuống thiêu hủy hai vị sĩ quan kia cùng với hai toán quân năm mươi người của họ. Nhưng bây giờ xin ông hãy xem mạng sống tôi là quý báu trước mặt ông. | |
II K | VietNVB | 1:15 | Bấy giờ thiên sứ của CHÚA nói với Ê-li: Hãy đi xuống với người ấy. Đừng sợ người ấy gì cả. Vậy Ê-li đứng dậy, đi xuống, theo người ấy đến gặp vua. | |
II K | VietNVB | 1:16 | Ông nói với vua: CHÚA phán như vầy: Bởi vì ngươi đã sai sứ giả đến cầu vấn Ba-anh Xê-bụt, thần của Éc-rôn. Có phải trong Y-sơ-ra-ên không có Đức Chúa Trời để ngươi có thể cầu hỏi lời Ngài sao? Vì thế ngươi sẽ không xuống khỏi giường bịnh ngươi đang nằm, nhưng ngươi chắc chắn sẽ chết. | |
II K | VietNVB | 1:17 | Vậy vua A-cha-xia qua đời, theo như lời của CHÚA đã phán qua Ê-li. Bởi vì A-cha-xia không có con, nên em trai của A-cha-xia là Giô-ram lên ngôi làm vua kế vị, nhằm năm thứ hai của Giô-ram, con trai Giê-hô-sa-phát, vua của Giu-đa. | |
Chapter 2
II K | VietNVB | 2:1 | Đang khi CHÚA muốn cất Ê-li lên trời trong một cơn gió trốt thì Ê-li và Ê-li-sê từ Ghinh-ganh đi ra. | |
II K | VietNVB | 2:2 | Ê-li nói với Ê-li-sê: Hãy ở lại đây. Vì CHÚA sai tôi đi đến Bê-tên.Nhưng Ê-li-sê đáp: Nguyền xin CHÚA hằng sống chứng giám, hễ ngày nào thầy còn sống, thì con sẽ không rời xa thầy. Vậy họ cùng nhau đi xuống Bê-tên. | |
II K | VietNVB | 2:3 | Một nhóm tiên tri ở Bê-tên đi ra gặp Ê-li-sê và nói: Anh há không biết là hôm nay CHÚA sẽ cất thầy anh đi sao?Ông đáp: Tôi biết. Xin anh em đừng nói gì nữa. | |
II K | VietNVB | 2:4 | Ê-li lại nói với ông: Ê-li-sê, hãy ở lại đây. Vì CHÚA sai tôi đến Giê-ri-cô.Nhưng ông đáp: Nguyền xin CHÚA hằng sống chứng giám, hễ ngày nào thầy còn sống, thì con sẽ không rời xa thầy. Vậy họ cùng nhau đi đến Giê-ri-cô. | |
II K | VietNVB | 2:5 | Một nhóm tiên tri ở Giê-ri-cô đến gần Ê-li-sê và bảo ông: Anh há không biết là hôm nay CHÚA sẽ cất thầy anh đi sao?Ông đáp: Tôi biết. Xin anh em đừng nói gì nữa. | |
II K | VietNVB | 2:6 | Bấy giờ Ê-li nói với ông: Hãy ở lại đây. Vì CHÚA sai tôi đi đến Giô-đanh.Nhưng ông đáp: Nguyền xin CHÚA hằng sống chứng giám, hễ ngày nào thầy còn sống, thì con sẽ không rời xa thầy. Vậy hai người cùng nhau tiếp tục lên đường. | |
II K | VietNVB | 2:7 | Có một nhóm năm mươi tiên tri đi theo và đứng cách xa họ khi hai người đang đứng ở bờ sông Giô-đanh. | |
II K | VietNVB | 2:8 | Bấy giờ Ê-li lấy chiếc áo choàng của mình, cuộn lại, và đập vào mặt nước; nước sông liền rẽ ra hai bên và hai người đi ngang qua trên đất khô. | |
II K | VietNVB | 2:9 | Khi họ đã qua bờ bên kia, Ê-li nói với Ê-li-sê: Hãy nói cho tôi biết anh muốn tôi làm gì cho anh, bởi vì tôi sắp được cất đi rồi.Ê-li-sê đáp: Con mong được thần của thầy tác động trên con gấp đôi. | |
II K | VietNVB | 2:10 | Ê-li nói: Anh xin một điều khó quá. Tuy nhiên, nếu anh thấy tôi, khi tôi được cất đi, thì anh sẽ được ban cho điều ấy; còn như anh không thấy, thì anh sẽ không nhận được. | |
II K | VietNVB | 2:11 | Đang khi họ tiếp tục đi và nói chuyện với nhau, thì một xe chiến mã bằng lửa kéo bằng các ngựa lửa chạy đến tách hai người ra, và Ê-li được cất lên trời trong một cơn gió trốt. | |
II K | VietNVB | 2:12 | Ê-li-sê nhìn theo và la lên: Cha ơi, cha ơi! Các xe chiến mã và kỵ binh của Y-sơ-ra-ên! Ông cứ nhìn theo cho đến khi không còn thấy Ê-li nữa, rồi ông nắm lấy áo của mình mà xé toạc ra làm hai. | |
II K | VietNVB | 2:13 | Ê-li-sê nhặt lấy chiếc áo choàng của Ê-li rớt lại và đi về. Ông đến đứng ở bờ sông Giô-đanh. | |
II K | VietNVB | 2:14 | Ông lấy chiếc áo choàng của Ê-li rớt lại đập vào mặt nước và nói: CHÚA là Đức Chúa Trời của Ê-li ở đâu? Khi ông đập vào mặt nước, nước sông rẽ ra làm hai, và Ê-li-sê đi qua sông. | |
II K | VietNVB | 2:15 | Khi nhóm tiên tri ở Giê-ri-cô thấy ông từ xa, thì họ nói với nhau: Thần của Ê-li đã ngự trên Ê-li-sê rồi. Họ đến gặp ông và cúi đầu sát đất trước mặt ông. | |
II K | VietNVB | 2:16 | Họ nói với ông: Hãy xem, chúng tôi có năm mươi người lực lưỡng ở đây sẵn sàng phục vụ ngài. Xin hãy cho họ đi tìm thầy của ngài. Có thể Thần của CHÚA đã cất lấy người rồi đặt người xuống một nơi nào đó trên núi hay trong thung lũng chăng.Ông đáp: Đừng, bảo họ đừng đi tìm. | |
II K | VietNVB | 2:17 | Nhưng họ cứ nài nỉ mãi đến độ ông cảm thấy ái ngại mà từ chối, nên ông nói, Thôi bảo họ đi đi. Vậy năm mươi người ấy đi tìm hết ba ngày nhưng không tìm được Ê-li. | |
II K | VietNVB | 2:18 | Khi họ trở về gặp ông, lúc ấy ông còn đang ở Giê-ri-cô, ông nói với họ: Có phải tôi đã bảo là đừng đi không? | |
II K | VietNVB | 2:19 | Bấy giờ dân trong thành đến nói với Ê-li-sê: Như chúa thấy đó, địa thế của thành thật tốt, nhưng nguồn nước thì lại không tốt, nên trong xứ không trồng tỉa gì được. | |
II K | VietNVB | 2:20 | Ông bảo: Hãy bỏ muối vào trong một bát còn mới và đem đến cho tôi. Vậy họ đem bát muối đến cho ông. | |
II K | VietNVB | 2:21 | Ông đi đến nguồn nước, đổ bát muối xuống nước và nói: CHÚA phán như vầy: Ta chữa lành nguồn nước nầy. Từ nay về sau, nguồn nước nầy sẽ không gây nên chết chóc hay làm cho bị hư thai nữa. | |
II K | VietNVB | 2:23 | Ê-li-sê rời khỏi nơi đó đi lên Bê-tên. Đang đi dọc đường, một bọn trẻ từ trong thành ra, chúng chế nhạo ông rằng: Lên đi, ông sói đầu! Lên đi, ông sói đầu! | |
II K | VietNVB | 2:24 | Ông quay lại, thấy chúng, ông bèn nhân danh CHÚA mà rủa chúng. Bấy giờ có hai con gấu cái từ trong rừng đi ra cấu xé bốn mươi hai cậu trẻ đó. | |
Chapter 3
II K | VietNVB | 3:1 | Vào năm thứ mười tám triều vua Giê-hô-sa-phát của Giu-đa, Giô-ram con trai A-háp lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên. Giô-ram trị vì mười hai năm tại Sa-ma-ri. | |
II K | VietNVB | 3:2 | Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, dù không như cha và mẹ của vua đã làm, vì vua có dẹp bỏ trụ đá thờ thần Ba-anh mà cha của vua đã lập. | |
II K | VietNVB | 3:3 | Tuy nhiên vua vẫn bám lấy tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là tội đã gây cho dân Y-sơ-ra-ên phạm tội; vua không từ bỏ tội lỗi ấy. | |
II K | VietNVB | 3:4 | Thuở ấy, Mê-sa, vua của Mô-áp là vị vua có biệt tài nuôi chiên. Vua đã đồng ý cống nộp cho vua Y-sơ-ra-ên một trăm ngàn chiên con và lông của một trăm ngàn chiên đực. | |
II K | VietNVB | 3:5 | Nhưng sau khi vua A-háp qua đời, thì vua của Mô-áp nổi loạn chống lại vua Y-sơ-ra-ên. | |
II K | VietNVB | 3:7 | Vua sai sứ giả đến thưa với vua Giê-hô-sa-phát của Giu-đa rằng: Vua của Mô-áp có nổi lên chống lại tôi, vua có thể đi với tôi để giúp đánh dân Mô-áp không?Vua Giê-hô-sa-phát đáp: Tôi sẽ đi với vua. Tôi cũng như vua, dân tôi cũng như dân vua, chiến mã tôi cũng như chiến mã của vua. | |
II K | VietNVB | 3:8 | Rồi vua hỏi tiếp: Nhưng chúng ta sẽ tấn công qua ngả nào?Giô-ram trả lời: Qua ngả đồng hoang Ê-đôm. | |
II K | VietNVB | 3:9 | Vậy vua của Y-sơ-ra-ên, vua của Giu-đa, và vua của Ê-đôm kéo quân ra; nhưng họ đi lòng vòng mất bảy ngày, bấy giờ cả đại quân và các súc vật đi theo đều không còn nước uống. | |
II K | VietNVB | 3:10 | Vua của Y-sơ-ra-ên bèn nói: Than ôi! CHÚA đã gọi chúng ta, cả ba vua ra đây, chỉ để nộp vào tay dân Mô-áp mà thôi. | |
II K | VietNVB | 3:11 | Nhưng Giê-hô-sa-phát nói: Ở đây chẳng có vị tiên tri nào của CHÚA để chúng ta có thể cầu vấn chăng?Một bầy tôi của vua Y-sơ-ra-ên tâu: Thưa có Ê-li-sê, là người thường xối nước cho Ê-li rửa tay, ở gần đây. | |
II K | VietNVB | 3:12 | Giê-hô-sa-phát nói: Người nầy có lời của CHÚA đó. Vậy vua của Y-sơ-ra-ên, Giê-hô-sa-phát, và vua của Ê-đôm đi xuống gặp Ê-li-sê. | |
II K | VietNVB | 3:13 | Ê-li-sê nói với vua Y-sơ-ra-ên: Tôi với vua có can hệ gì chăng? Hãy đi cầu vấn các tiên tri của cha vua hoặc các tiên tri của mẹ vua.Nhưng vua của Y-sơ-ra-ên đáp: Không đâu. Vì CHÚA đã gọi chúng tôi, cả ba vua đến, chỉ để nộp cho dân Mô-áp đó thôi. | |
II K | VietNVB | 3:14 | Ê-li-sê đáp: Nguyện CHÚA Toàn Năng hằng sống, là Đấng tôi phục vụ, làm chứng. Nếu tôi không kính trọng Giê-hô-sa-phát, vua của Giu-đa, thì tôi chẳng coi vua ra gì và cũng không tiếp vua nữa. | |
II K | VietNVB | 3:15 | Hãy đem cho tôi một người khảy đàn hạc.Đang khi người ấy khảy đàn hạc thì tay CHÚA giáng trên Ê-li-sê, | |
II K | VietNVB | 3:17 | Bởi CHÚA phán như vầy: Các ngươi sẽ không thấy gió hay mưa, nhưng thung lũng sẽ đầy nước, để các ngươi sẽ uống. Các ngươi, bò lừa và súc vật các ngươi sẽ uống. | |
II K | VietNVB | 3:18 | Nhưng đây chỉ là việc nhỏ trước mặt CHÚA. Vì Ngài sẽ trao Mô-áp vào trong tay các ngươi. | |
II K | VietNVB | 3:19 | Các ngươi sẽ đánh hạ các thành kiên cố và các đô thị quan trọng. Các ngươi sẽ đốn hạ những cây tốt, lấp ngăn mọi suối nước, rải đá phá hoại tất cả những cánh đồng phì nhiêu. | |
II K | VietNVB | 3:20 | Ngày hôm sau, vào lúc dâng của lễ buổi sáng, thình lình nước từ hướng Ê-đôm đổ xuống, cho đến khi cả xứ tràn đầy nước. | |
II K | VietNVB | 3:21 | Lúc ấy, khi toàn dân Mô-áp nghe rằng các vua đã kéo đến để tấn công họ, thì tất cả những ai có khả năng chiến đấu, từ người trẻ nhất đến người già nhất, đều được triệu tập, trang bị vũ khí và đưa ra trấn đóng ở biên thùy. | |
II K | VietNVB | 3:22 | Sáng sớm họ thức dậy, ánh sáng mặt trời chiếu trên mặt nước, người Mô-áp thấy nước trước mặt họ trông đỏ như máu. | |
II K | VietNVB | 3:23 | Họ nói với nhau: Ấy là máu đó. Các vua kia chắc đã đánh nhau và giết nhau chết rồi. Bây giờ, hỡi người Mô-áp, hãy đi cướp của! | |
II K | VietNVB | 3:24 | Nhưng khi họ đến trại quân Y-sơ-ra-ên, quân Y-sơ-ra-ên chỗi dậy tấn công quân Mô-áp. Người Mô-áp bỏ chạy trước mặt người Y-sơ-ra-ên. Quân Y-sơ-ra-ên đuổi theo vào xứ Mô-áp, tiếp tục truy kích và đánh giết họ. | |
II K | VietNVB | 3:25 | Đại quân của Y-sơ-ra-ên đánh hạ các thành, những cánh đồng phì nhiêu đều bị những cánh quân đi qua mỗi người ném vào một cục đá cho đến khi lấp đầy, mọi suối nước đều bị lấp ngăn, và mọi cây tốt đều bị đốn ngã. Chỉ có ở Kiệt Ha-rê-sết thì các vách thành bằng đá là còn lại cho đến khi đội quân bắn đá đến bao vây và tấn công nó. | |
II K | VietNVB | 3:26 | Khi vua của Mô-áp thấy mình bị thất trận, thì vua dẫn một đạo quân gồm bảy trăm người cầm gươm, mở đường máu xông đến vua Ê-đôm, nhưng họ xông đến không nổi. | |
Chapter 4
II K | VietNVB | 4:1 | Lúc ấy có một thiếu phụ là vợ của một tiên tri trong nhóm các tiên tri đến khóc than với Ê-li-sê rằng: Tôi tớ của thầy là chồng con đã qua đời, và thầy biết tôi tớ của thầy là người kính sợ CHÚA. Bây giờ chủ nợ muốn đến bắt hai con trai của con đi làm nô lệ để trừ nợ. | |
II K | VietNVB | 4:2 | Ê-li-sê nói với bà: Tôi có thể giúp chị được gì không? Xin chị nói cho tôi biết, trong nhà chị còn thứ gì không?Bà ấy đáp: Thưa, tôi tớ của thầy chẳng còn gì trong nhà cả, ngoại trừ một bình dầu. | |
II K | VietNVB | 4:3 | Ê-li-sê nói: Chị hãy đi, đến các bà con xóm giềng mượn những bình không, nhớ đừng mượn ít. | |
II K | VietNVB | 4:4 | Xong rồi, chị và các con chị vào nhà, đóng cửa lại, đổ dầu vào những bình không đó, hễ bình nào đầy thì để riêng ra. | |
II K | VietNVB | 4:5 | Bà ra về, bà và các con trai bà đóng cửa lại. Các con bà mang các bình không đến cho bà đổ dầu vào. | |
II K | VietNVB | 4:6 | Khi các bình đã đầy, bà nói với con: Mang đến cho mẹ một bình nữa.Nhưng con bà đáp: Dạ hết bình rồi. Dầu liền ngưng chảy. | |
II K | VietNVB | 4:7 | Bà đến trình với người của Đức Chúa Trời. Ông bảo: Chị hãy đi bán các dầu ấy mà trả nợ. Số còn lại thì mẹ con chị hãy dùng mà sinh sống. | |
II K | VietNVB | 4:8 | Một ngày nọ Ê-li-sê đi ngang qua Su-nem. Nơi đó có một người đàn bà giàu có cư ngụ. Bà ấy nài mời ông ở lại dùng bữa. Từ đó, mỗi khi đi ngang qua đó, ông ghé lại nhà bà nầy dùng bữa. | |
II K | VietNVB | 4:9 | Bà ấy nói với chồng bà: Mình à, tôi biết người hay đi ngang qua nhà chúng ta đây, là người thánh của Đức Chúa Trời. | |
II K | VietNVB | 4:10 | Chúng ta hãy xây một căn phòng trên sân thượng, có tường vách hẳn hoi, rồi để trong đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cái đèn, để mỗi khi người ấy đến với chúng ta thì sẽ ở trong phòng ấy. | |
II K | VietNVB | 4:12 | Ông nói với Ghê-ha-xi, đầy tớ mình: Hãy đi gọi người đàn bà Su-nem đó. Người đầy tớ đi gọi và bà đến đứng trước mặt ông. | |
II K | VietNVB | 4:13 | Ông bảo người đầy tớ: Hãy nói với bà ấy: Kìa, bà đã cực nhọc lo cho chúng tôi mọi thứ nầy. Bây giờ chúng tôi phải làm gì cho bà đây? Bà có muốn chúng tôi nói với vua hay với quan Tổng Tư Lệnh quân đội điều gì giúp bà chăng?Bà đáp: Tôi vẫn sống an lành giữa dân tộc tôi. | |
II K | VietNVB | 4:14 | Ông lại nói: Nếu vậy thì chúng ta phải làm gì cho bà ấy đây?Ghê-ha-xi đáp: Con thấy bà ấy không có con trai mà chồng thì đã già rồi. | |
II K | VietNVB | 4:16 | Ê-li-sê nói: Cũng vào mùa nầy, vào độ nầy sang năm, bà sẽ bồng một đứa con trai.Bà đáp: Đừng, thưa chúa của tôi, người của Đức Chúa Trời, xin ngài đừng gạt đứa tớ gái của ngài. | |
II K | VietNVB | 4:17 | Người đàn bà thụ thai và năm sau, sanh một con trai đúng vào kỳ, vào độ mà Ê-li-sê đã bảo trước cho bà. | |
II K | VietNVB | 4:18 | Đứa trẻ lớn lên, một ngày kia, nó theo cha đi ra đồng thăm những người đang gặt lúa. | |
II K | VietNVB | 4:19 | Nó nói với cha: Con nhức đầu quá! Con nhức đầu quá!Người cha nói với đầy tớ mình: Hãy bồng nó về cho mẹ nó. | |
II K | VietNVB | 4:20 | Người đầy tớ bồng nó về, trao cho mẹ nó. Đứa trẻ ngồi trên đùi của mẹ nó cho đến trưa thì chết. | |
II K | VietNVB | 4:21 | Bà bèn đem nó lên, để trong phòng của người Đức Chúa Trời, đóng cửa lại, rồi ra đi. | |
II K | VietNVB | 4:22 | Bà gọi chồng bà và nói: Mình hãy cắt cho tôi một người đầy tớ và một con lừa, để tôi sẽ đi đến gặp người của Đức Chúa Trời ngay, rồi tôi sẽ trở về. | |
II K | VietNVB | 4:23 | Chồng bà hỏi: Tại sao hôm nay lại đi gặp người ấy? Hôm nay nào phải là ngày trăng mới hay là ngày Sa-bát đâu?Bà đáp: Mình cứ yên tâm đi. | |
II K | VietNVB | 4:24 | Rồi bà bảo thắng lừa và nói với người đầy tớ: Hãy thúc lừa đi nhanh. Chỉ khi nào tôi bảo thì cậu mới dừng lại. | |
II K | VietNVB | 4:25 | Thế là bà lên đường đi đến gặp người của Đức Chúa Trời tại núi Cạt-mên.Khi người của Đức Chúa Trời thấy bà đến, ông bảo Ghê-ha-xi là đầy tớ mình: Kìa, có bà ở Su-nem đang đến. | |
II K | VietNVB | 4:26 | Ngươi hãy mau ra đón bà ấy và hỏi: Bà có bình an chăng? Chồng bà có bình an chăng? Con bà có bình an chăng? Bà đáp: Mọi sự đều bình an. | |
II K | VietNVB | 4:27 | Khi đến gần người của Đức Chúa Trời trên núi, bà sụp xuống ôm lấy chân ông. Ghê-ha-xi liền đến gần để gỡ bà ra, nhưng người của Đức Chúa Trời nói: Hãy để yên cho bà ấy, vì bà ấy đang đắng cay sầu khổ lắm. CHÚA đã giấu ta việc nầy và Ngài đã không cho ta biết. | |
II K | VietNVB | 4:28 | Đoạn bà nói: Tôi nào dám xin ngài cho được một đứa con trai đâu? Ngài có nhớ là tôi có nói rằng xin ngài đừng gạt tôi không? | |
II K | VietNVB | 4:29 | Ông bảo Ghê-ha-xi: Ngươi hãy thắt lưng, cầm gậy của ta, và đi. Nếu ngươi gặp ai dọc đường, đừng chào hỏi. Nếu ai chào hỏi ngươi, chớ trả lời. Hãy đem cây gậy của ta để trên mặt của đứa trẻ. | |
II K | VietNVB | 4:30 | Nhưng người mẹ của đứa trẻ nói: Nguyện CHÚA là Đấng Hằng Sống chứng giám, và nguyện ngài là người đang sống đây chứng cho, tôi xin thề là tôi sẽ không rời khỏi nơi đây nếu ngài không xuống giúp cho. Vậy Ê-li-sê đứng dậy và đi theo bà. | |
II K | VietNVB | 4:31 | Ghê-ha-xi đi trước, để cây gậy trên mặt đứa trẻ, nhưng không nghe động tĩnh gì hay thấy dấu hiệu gì của sự sống. Ghê-ha-xi đang đi trở về thì gặp Ê-li-sê và nói: Đứa trẻ không tỉnh lại. | |
II K | VietNVB | 4:33 | Ông bèn vào trong phòng, đóng cửa lại, chỉ một mình ông và đứa trẻ, rồi ông cầu nguyện với CHÚA. | |
II K | VietNVB | 4:34 | Đoạn ông đứng dậy, lên giường và nằm sấp trên đứa trẻ, đặt miệng ông trên miệng đứa trẻ, mắt ông trên mắt đứa trẻ, tay ông trên tay đứa trẻ; và đang khi ông ấp đứa trẻ như thế, thân thể đứa trẻ từ từ ấm lại. | |
II K | VietNVB | 4:35 | Ông bước xuống, đi tới đi lui trong phòng, rồi ông lại lên giường, ấp trên đứa trẻ lần nữa. Đứa trẻ nhảy mũi bảy lần và mở mắt ra. | |
II K | VietNVB | 4:36 | Ê-li-sê gọi Ghê-ha-xi và bảo: Hãy gọi người đàn bà Su-nem đến đây. Ghê-ha-xi liền đi gọi bà. Khi bà ấy đến, ông bảo: Hãy đem con bà đi. | |
II K | VietNVB | 4:37 | Bà đến, quỳ xuống nơi chân ông, cúi đầu sát đất, rồi bà ôm lấy con bà và dẫn nó đi. | |
II K | VietNVB | 4:38 | Khi Ê-li-sê trở lại Ghinh-ganh thì gặp lúc trong xứ có nạn đói. Đang khi các tiên tri ngồi trước mặt ông, ông bảo người đầy tớ mình: Hãy bắc một nồi lớn lên và nấu canh cho các tiên tri ăn. | |
II K | VietNVB | 4:39 | Một người trong nhóm đi ra đồng hái rau. Người ấy gặp một bụi cây giống như cây nho dại, bèn hái những trái dưa dại ấy, bọc đầy một vạt áo, đem về cắt ra, bỏ vào nồi canh, mà không hề biết đó là trái gì. | |
II K | VietNVB | 4:40 | Đoạn họ múc canh cho mọi người ăn. Nhưng khi vừa nếm canh thì họ la lên: Thưa người của Đức Chúa Trời, nồi canh nầy độc lắm! Rồi họ không thể ăn canh ấy được. | |
II K | VietNVB | 4:41 | Ê-li-sê bảo: Hãy đem ít bột lại đây. Ông lấy bột bỏ vào nồi canh rồi nói: Hãy múc ra cho mọi người ăn. Chất độc trong nồi biến mất và không còn nữa. | |
II K | VietNVB | 4:42 | Có một người từ Ba-anh Sa-li-ma đến, người ấy đem bánh trái đầu mùa để biếu người của Đức Chúa Trời. Đồ người ấy biếu gồm hai mươi ổ bánh lúa mạch và một túi cốm gạo. Ê-li-sê bảo: Hãy đem phát ra cho mọi người ăn. | |
II K | VietNVB | 4:43 | Người đầy tớ của ông thưa: Có bao nhiêu đây thì làm sao con có thể phát cho một trăm người ăn?Nhưng ông lại bảo nữa: Hãy cứ đem phát cho mọi người ăn, vì CHÚA đã phán: Họ sẽ ăn no nê và còn thừa lại nữa. | |
Chapter 5
II K | VietNVB | 5:1 | Na-a-man, Tổng Tư Lệnh quân đội của vua A-ram, là một người quyền thế và rất có uy tín với chủ mình; bởi vì CHÚA đã dùng ông mà ban chiến thắng cho A-ram. Tuy ông là một chiến sĩ dũng mãnh nhưng lại mắc chứng bịnh phung. | |
II K | VietNVB | 5:2 | Lúc ấy, các toán quân của A-ram có đi đột kích và bắt được một em gái người Y-sơ-ra-ên đem về làm nô tỳ cho vợ Na-a-man. | |
II K | VietNVB | 5:3 | Em gái ấy nói với bà chủ mình: Ôi phải chi ông chủ con gặp được ông tiên tri ở Sa-ma-ri, thì ông ấy sẽ chữa cho ông chủ được lành. | |
II K | VietNVB | 5:5 | Vua của A-ram bèn nói: Thế thì ngươi hãy đi. Ta sẽ gởi cho vua Y-sơ-ra-ên một bức thư. Na-a-man lên đường, đem theo ba trăm ký bạc, sáu mươi ký vàng, và mười bộ quần áo. | |
II K | VietNVB | 5:6 | Ông đem bức thư trình lên vua Y-sơ-ra-ên. Thư viết rằng: Cùng với bức thư nầy gởi đến vua, thì tôi đã sai Na-a-man, đầy tớ tôi, đến với vua, để xin vua chữa lành bịnh phung cho ông ấy. | |
II K | VietNVB | 5:7 | Khi vua Y-sơ-ra-ên đọc xong bức thư thì vua xé áo mình và nói: Ông ấy sai người đến với ta để ta chữa lành bịnh phung cho. Bộ ông ấy tưởng ta là Đức Chúa Trời, có quyền làm sống làm chết hay sao? Các ngươi hãy xem đấy, rõ ràng là ông ấy kiếm cớ để gây sự với ta mà. | |
II K | VietNVB | 5:8 | Nhưng khi Ê-li-sê, người của Đức Chúa Trời, có nghe vua Y-sơ-ra-ên xé áo mình thì sai người đến nói với vua: Tại sao vua xé áo mình? Hãy sai người ấy đến với tôi, để ông ấy sẽ biết rằng trong Y-sơ-ra-ên có một tiên tri. | |
II K | VietNVB | 5:10 | Ê-li-sê sai một sứ giả ra bảo: Hãy đi, đến sông Giô-đanh tắm bảy lần, thì da thịt ngươi sẽ lành và được sạch bịnh. | |
II K | VietNVB | 5:11 | Nhưng Na-a-man nổi giận, bỏ đi và nói: Ta nghĩ rằng ông ấy phải đích thân ra đón ta, rồi đứng mà cầu khẩn danh CHÚA là Đức Chúa Trời của ông ta. Rồi ông ấy phải lấy tay đưa qua đưa lại trên các vết phung và chữa lành bịnh phung cho ta. | |
II K | VietNVB | 5:12 | A-ba-na và Bạt-ba là hai con sông ở Đa-mách, nước các sông ấy há chẳng tốt hơn các giòng nước ở Y-sơ-ra-ên sao? Ta há chẳng có thể tắm ở hai sông đó mà được sạch sao? Rồi ông giận dỗi bỏ đi. | |
II K | VietNVB | 5:13 | Nhưng các tôi tớ ông đến gần và nói với ông: Thưa cha, nếu ông tiên tri có truyền cho cha phải làm một việc khó khăn, chẳng lẽ cha không làm sao? Huống hồ chi bây giờ ông ấy chỉ bảo cha rằng: Hãy đi tắm thì sẽ được sạch! | |
II K | VietNVB | 5:14 | Vậy Na-a-man đi xuống, tắm mình bảy lần dưới sông Giô-đanh, theo như lời của người Đức Chúa Trời. Da thịt ông được bình phục trở lại, như của một đứa trẻ, và ông được sạch bịnh phung. | |
II K | VietNVB | 5:15 | Ông và đoàn tuỳ tùng liền trở lại gặp người của Đức Chúa Trời. Ông đến đứng trước người và nói: Bây giờ tôi nhận biết rằng trên khắp thế gian không có Đức Chúa Trời nào khác ngoài Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Xin ngài hãy nhận một lễ vật của tôi tớ ngài. | |
II K | VietNVB | 5:16 | Nhưng Ê-li-sê từ chối và nói: Nguyện Đức Chúa Trời hằng sống, là Đấng ta phục sự, chứng giám. Ta sẽ không nhận gì hết. Na-a-man nài nỉ ông nhận, nhưng ông nhất định từ chối. | |
II K | VietNVB | 5:17 | Bấy giờ Na-a-man nói: Nếu ngài không chịu nhận vật gì, vậy thôi xin ngài cho tôi tớ ngài mang về một ít đất đủ cho hai con lừa chở được. Vì tôi tớ ngài sẽ không dâng của lễ thiêu hay sinh tế cho thần nào khác ngoại trừ một mình CHÚA. | |
II K | VietNVB | 5:18 | Chỉ xin CHÚA tha thứ cho tôi tớ ngài một điều, đó là khi chủ tôi đi vào đền của Rim-môn để thờ lạy, ông ấy hay vịn vào cánh tay tôi để quỳ xuống, vì thế tôi bị bắt phải quỳ theo trong đền của Rim-môn. Vậy khi tôi phải quỳ xuống trong đền của Rim-môn, nguyện CHÚA tha thứ cho tôi tớ ngài việc ấy. | |
II K | VietNVB | 5:19 | Ê-li-sê nói với ông: Hãy đi bình an. Sau khi Na-a-man ra đi được một khoảng xa xa, | |
II K | VietNVB | 5:20 | thì Ghê-ha-xi, đầy tớ của Ê-li-sê, người của Đức Chúa Trời, nghĩ rằng: Thầy ta để cho Na-a-man, người A-ram, ra đi quá dễ dàng, mà không nhận vật gì ông ấy đem tặng. Có Đức Chúa Trời hằng sống chứng giám, ta sẽ đuổi theo ông ấy và nhận lấy vật gì mới được. | |
II K | VietNVB | 5:21 | Vậy Ghê-ha-xi đuổi theo Na-a-man. Khi Na-a-man thấy có người đuổi theo mình thì ông từ trên xe nhảy xuống, đến đón và hỏi: Mọi sự bình an chăng? | |
II K | VietNVB | 5:22 | Ghê-ha-xi đáp: Bình an. Có điều là thầy tôi sai tôi đến nói: Có hai tiên tri mới vừa từ vùng đồi núi Ép-ra-im đến, xin ngài hãy cho họ ba mươi ký bạc và hai bộ quần áo để thay đổi. | |
II K | VietNVB | 5:23 | Na-a-man đáp: Xin hãy nhận lấy sáu mươi ký. Rồi ông nài ép Ghê-ha-xi hãy nhận. Ông cho cột sáu mươi ký bạc và hai bộ quần áo để thay đổi vào hai bao, rồi sai hai người đầy tớ mang đi trước mặt Ghê-ha-xi. | |
II K | VietNVB | 5:24 | Khi họ đến chân đồi, thì Ghê-ha-xi lấy hai bao ấy khỏi tay họ để đem cất trong nhà mình, rồi cho hai người ấy đi về, và họ ra về. | |
II K | VietNVB | 5:25 | Đoạn Ghê-ha-xi đi vào gặp thầy mình và đứng hầu trước mặt ông.Ê-li-sê hỏi: Ghê-ha-xi, ngươi đi đâu về đó?Ghê-ha-xi đáp: Tôi tớ của thầy đâu có đi đâu. | |
II K | VietNVB | 5:26 | Nhưng ông bảo: Tâm linh ta há không đi với ngươi khi người ta từ trên xe nhảy xuống để đón ngươi sao? Bây giờ há có phải là lúc để nhận tiền bạc, quần áo, vườn ô-liu, vườn nho, chiên, bò và tôi trai, tớ gái hay sao? | |
Chapter 6
II K | VietNVB | 6:1 | Khi ấy các tiên tri nói với Ê-li-sê: Xin thầy xem đấy, nơi chúng con ngồi nghe thầy dạy thật là chật hẹp so với số người của chúng con. | |
II K | VietNVB | 6:2 | Xin thầy cho chúng con xuống mé sông Giô-đanh, mỗi người đốn một cây, rồi cất tại đó một chỗ ở cho chúng ta.Ông đáp: Thì làm như vậy đi. | |
II K | VietNVB | 6:5 | Nhưng có một người đang khi đốn cây thì lưỡi rìu sút khỏi cán và văng xuống nước. Người ấy kêu lên: Thôi rồi, thầy ôi! Chiếc rìu nầy con mượn của người ta. | |
II K | VietNVB | 6:6 | Người của Đức Chúa Trời hỏi: Nó văng xuống chỗ nào? Người ấy chỉ cho ông chỗ nó văng xuống. Ông chặt một nhánh cây, phóng xuống chỗ ấy, lưỡi rìu bằng sắt bèn nổi lên. | |
II K | VietNVB | 6:8 | Thuở ấy vua A-ram giao chiến với Y-sơ-ra-ên. Vua ấy họp bàn với các quan tham mưu của mình rằng: Ta sẽ đóng trại quân ở chỗ nọ chỗ kia. | |
II K | VietNVB | 6:9 | Nhưng người của Đức Chúa Trời sai người đến báo với vua Y-sơ-ra-ên: Chớ có đi qua chỗ ấy, vì dân A-ram đang phục binh ở đó. | |
II K | VietNVB | 6:10 | Vua Y-sơ-ra-ên bèn truyền quân thám báo đến dò xét chỗ người của Đức Chúa Trời đã bảo thì quả đúng như vậy. Hơn một đôi lần Ê-li-sê sai người đến báo như thế. Nhờ vậy vua Y-sơ-ra-ên cứ đề phòng luôn. | |
II K | VietNVB | 6:11 | Lòng vua A-ram rất bối rối về việc nầy. Vua gọi các quan tham mưu lại và nói: Chẳng lẽ các ngươi không nói cho ta biết ai trong các ngươi theo phe vua Y-sơ-ra-ên sao? | |
II K | VietNVB | 6:12 | Một trong các người ấy tâu: Tâu bệ hạ, chúa của hạ thần, không ai trong chúng tôi đâu. Nhưng ấy là Ê-li-sê, tiên tri của Y-sơ-ra-ên, người ấy có thể bảo cho vua Y-sơ-ra-ên biết những lời bệ hạ nói trong phòng ngủ của bệ hạ. | |
II K | VietNVB | 6:13 | Vua ấy truyền: Hãy đi và tìm xem người ấy ở đâu. Ta sẽ sai quân đi bắt người ấy. Người ta tâu với vua: Ông ấy ở Đô-than. | |
II K | VietNVB | 6:14 | Vậy vua A-ram sai một đội quân lớn có kỵ binh và các xe chiến mã kéo đến đó. Họ kéo đến vào ban đêm và vây thành. | |
II K | VietNVB | 6:15 | Sáng sớm, một người đầy tớ của người Đức Chúa Trời đi ra và thấy một đạo quân với các ngựa chiến và các xe chiến mã đang vây thành. Người đầy tớ ấy bèn nói: Chết rồi, thầy ơi! Làm sao bây giờ? | |
II K | VietNVB | 6:17 | Rồi Ê-li-sê cầu nguyện: Lạy CHÚA, xin Ngài mở mắt cho đầy tớ của con để nó có thể thấy được. Vậy CHÚA mở mắt cho đầy tớ ấy, và người ấy thấy trên núi đầy những ngựa lửa và các xe chiến mã bằng lửa đang bao quanh bảo vệ Ê-li-sê. | |
II K | VietNVB | 6:18 | Khi quân A-ram xuống tấn công Ê-li-sê, ông cầu nguyện với CHÚA: Con xin Ngài hãy đánh cho dân nầy bị mù mắt. Ngài bèn khiến cho dân ấy bị mù mắt y như Ê-li-sê đã cầu xin. | |
II K | VietNVB | 6:19 | Ê-li-sê nói với họ: Đây không phải là đường. Đây cũng không phải là thành. Tôi sẽ dẫn các anh đến người mà các anh đang tìm kiếm. Rồi ông dẫn họ đến Sa-ma-ri. | |
II K | VietNVB | 6:20 | Vừa khi họ vào trong thành Sa-ma-ri, Ê-li-sê nói: Lạy CHÚA, bây giờ xin Ngài mở mắt những người nầy để họ thấy. CHÚA bèn mở mắt họ và họ thấy mình đang ở trong thành Sa-ma-ri. | |
II K | VietNVB | 6:21 | Khi vua của Y-sơ-ra-ên thấy họ thì nói với Ê-li-sê: Thưa cha, tôi phải giết chúng không? Tôi phải giết chúng không? | |
II K | VietNVB | 6:22 | Ông đáp: Đừng. Những người mà vua dùng gươm và cung mà bắt sống, vua có giết họ không? Hãy lấy bánh và nước ra đãi họ ăn uống; rồi thả họ về với chủ họ. | |
II K | VietNVB | 6:23 | Vậy vua dọn tiệc lớn đãi họ. Sau khi họ ăn và uống rồi, vua cho họ trở về cùng chủ của họ. Vì thế những toán quân A-ram không đi đột kích trong lãnh thổ của Y-sơ-ra-ên nữa. | |
II K | VietNVB | 6:24 | Sau đó ít lâu, vua Bên Ha-đát của A-ram huy động toàn bộ quân đội mình. Vua kéo đến Sa-ma-ri và bao vây thành. | |
II K | VietNVB | 6:25 | Vì thành bị vây khá lâu, nên trong thành có cơn đói kém lớn, đến nỗi một cái đầu lừa giá bán đến hai mươi bốn lượng bạc, còn một phần tư lít phân bồ câu cũng bán được một lượng rưỡi bạc. | |
II K | VietNVB | 6:26 | Khi ấy vua Y-sơ-ra-ên đi thanh tra trên tường thành, thì có một bà nọ kêu cầu với vua: Xin hãy giúp đỡ tôi, tâu vua, chúa của tôi. | |
II K | VietNVB | 6:27 | Vua đáp: Nếu CHÚA không giúp đỡ ngươi, thì ta cũng không biết lấy gì để giúp đỡ ngươi bây giờ. Đâu còn gì ở sân đạp lúa hay là trong bàn ép rượu nho đâu? | |
II K | VietNVB | 6:28 | Rồi vua hỏi bà ấy: Ngươi kêu van việc gì?Bà ấy đáp: Mụ nầy có nói với tôi: Hãy đem con trai chị ra đây. Hôm nay chúng ta ăn thịt nó, rồi ngày mai chúng ta sẽ ăn thịt con trai tôi. | |
II K | VietNVB | 6:29 | Vậy chúng tôi có nấu con trai tôi và ăn thịt nó. Ngày hôm sau, tôi bảo mụ ấy: Hãy đưa con chị ra đây để chúng ta ăn thịt nó. Nhưng mụ ấy đã đem con trai mình mà giấu đi mất. | |
II K | VietNVB | 6:30 | Khi vua nghe những lời bà ấy nói xong thì vua xé áo mình. Vả, khi ấy vua đang đi thanh tra trên tường thành, nên người ta có thể trông thấy vua đang mặc một lớp vải gai bên trong. | |
II K | VietNVB | 6:31 | Vua nói: Nguyện Đức Chúa Trời phạt ta cách nặng nề, nếu hôm nay cái đầu của Ê-li-sê, con trai Sa-phát, vẫn còn nằm trên vai nó. | |
II K | VietNVB | 6:32 | Vua bèn truyền cho một tên quân cận vệ đi giết Ê-li-sê.Khi ấy, Ê-li-sê đang ngồi trong nhà ông. Có các trưởng lão ngồi ở đó với ông. Trước khi tên cận vệ đến nơi, Ê-li-sê nói với các trưởng lão: Quý vị có biết kẻ sát nhân đang sai người đến chém đầu tôi chăng? Khi kẻ ấy đến, xin quý vị cứ đóng chặt cửa lại và không cho hắn vào. Há chẳng phải là tiếng chân của chủ hắn đang theo sau hắn đó sao? | |
Chapter 7
II K | VietNVB | 7:1 | Nhưng Ê-li-sê đáp: Hãy nghe rõ lời của CHÚA: CHÚA phán rằng: Ngày mai, cũng vào giờ nầy, tại cổng thành Sa-ma-ri, bảy lít bột lọc giá còn ba chỉ bạc, mười bốn lít lúa mạch cũng bán ba chỉ bạc mà thôi. | |
II K | VietNVB | 7:2 | Vị quan hộ giá đang giang tay ra cho vua vịn liền nói với người của Đức Chúa Trời: Dầu CHÚA có mở các cửa sổ trên trời mà đổ xuống thì điều ấy há có thể xảy ra được sao?Nhưng Ê-li-sê đáp: Chính mắt ông sẽ thấy điều ấy, nhưng ông sẽ không được ăn. | |
II K | VietNVB | 7:3 | Khi ấy có bốn người phung ngoài cổng thành. Họ nói với nhau: Tại sao chúng ta cứ ngồi đây cho đến chết? | |
II K | VietNVB | 7:4 | Nếu chúng ta nói: Hãy vào trong thành, thì trong thành đang có cơn đói kém, và chúng ta sẽ chết trong đó; nhưng nếu chúng ta cứ ngồi đây, thì chúng ta cũng sẽ chết. Chi bằng chúng ta hãy qua trại quân A-ram và đầu hàng. Nếu họ tha mạng cho thì chúng ta sẽ sống; còn nếu họ giết thì đàng nào chúng ta cũng chết thôi. | |
II K | VietNVB | 7:5 | Vậy họ chỗi dậy lúc trời vừa sập tối để đi đến trại quân A-ram; nhưng khi họ đến đầu trại quân A-ram thì không thấy có ai ở đó cả. | |
II K | VietNVB | 7:6 | Vì CHÚA đã khiến cho đội quân A-ram nghe tiếng rúng động do các xe chiến mã và các ngựa chiến, tiếng của một đạo binh rất lớn đang kéo đến, vì thế họ bảo nhau: Vua Y-sơ-ra-ên đã thuê các vua của người Hê-tít và vua Ai-cập đến đánh chúng ta. | |
II K | VietNVB | 7:7 | Vậy lúc trời vừa sập tối họ bỏ trại, ngựa, lừa, và mọi thứ y nguyên mà mạnh ai nấy chạy để cứu mạng. | |
II K | VietNVB | 7:8 | Những người phung nầy đến đầu trại quân, rồi họ tiến sâu vào trong doanh trại; họ ăn và uống, xong lấy bạc, vàng, và quần áo đem đi giấu; rồi họ trở lại, vào trong một doanh trại khác, lấy những của cải và đem đi giấu nữa. | |
II K | VietNVB | 7:9 | Bấy giờ họ nói với nhau: Chúng ta làm như thế nầy thật không phải. Đây là ngày có tin mừng. Nếu chúng ta cứ yên lặng và đợi đến trời sáng, thì chúng ta sẽ mắc tội. Chúng ta phải đi ngay, báo tin nầy cho nhà vua. | |
II K | VietNVB | 7:10 | Vậy họ đến và gọi những người canh cổng thành và nói: Chúng tôi có đến trại quân A-ram, nhưng chúng tôi không thấy có ai và không nghe tiếng người nào ở đó cả. Chúng tôi thấy ngựa đang cột, lừa đang cột, và các lều trại vẫn y nguyên. | |
II K | VietNVB | 7:12 | Nửa đêm, vua thức dậy và nói với bầy tôi của mình: Để ta nói cho các ngươi biết quân A-ram đang chuẩn bị làm gì với chúng ta. Chúng biết rằng chúng ta đang bị đói; nên chúng đã rút vào trong đồng ẩn núp và nghĩ rằng: Đợi cho dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi thành thì chúng ta sẽ bắt sống chúng, rồi vào chiếm lấy thành. | |
II K | VietNVB | 7:13 | Một trong các tôi tớ của vua nói: Xin hãy cho vài người lấy năm con ngựa còn lại, nếu không chúng cũng sẽ đồng chịu chung số phận với toàn dân Y-sơ-ra-ên đang chết dần chết mòn còn sót lại đây, mà sai họ đi xem thử thật hư ra sao. | |
II K | VietNVB | 7:14 | Vậy họ chọn hai chiếc xe chiến mã, mắc ngựa vào, rồi vua sai họ đuổi theo đạo quân A-ram và bảo: Hãy đi và xem thử tình hình ra sao. | |
II K | VietNVB | 7:15 | Vậy họ đuổi theo đạo quân A-ram cho đến tận bờ sông Giô-đanh. Dọc đường họ thấy, trong lúc hối hả chạy trốn, quân A-ram đã vứt bỏ quần áo, quân trang quân dụng la liệt khắp nơi. Các sứ giả bèn trở về và trình báo với nhà vua. | |
II K | VietNVB | 7:16 | Bấy giờ dân chúng từ trong thành túa ra cướp lấy của trong các trại quân A-ram. Cho nên bảy lít bột lọc giá còn ba chỉ bạc, mười bốn lít lúa mạch cũng bán ba chỉ bạc, y như lời của CHÚA. | |
II K | VietNVB | 7:17 | Khi ấy vua chỉ thị cho vị quan hộ giá đã giang tay ra cho vua vịn điều động trật tự ở cổng thành. Dân chúng giẫm lên trên quan ấy mà tràn ra làm cho ông ấy thiệt mạng ở cổng thành, y như lời Đức Chúa Trời đã phán khi vua xuống gặp Ê-li-sê. | |
II K | VietNVB | 7:18 | Lúc ấy người của Đức Chúa Trời có nói với vua: Ngày mai, cũng vào giờ nầy, tại cổng thành Sa-ma-ri, bảy lít bột lọc giá còn ba chỉ bạc, mười bốn lít lúa mạch cũng bán ba chỉ bạc mà thôi. | |
II K | VietNVB | 7:19 | Nhưng vị quan ấy đã nói với người của Đức Chúa Trời: Dầu CHÚA có mở các cửa sổ trên trời mà đổ xuống thì điều ấy há có thể xảy ra được sao? Và người của Đức Chúa Trời đã đáp: Chính mắt ông sẽ thấy điều ấy, nhưng ông sẽ không được ăn. | |
Chapter 8
II K | VietNVB | 8:1 | Khi ấy Ê-li-sê nói với người đàn bà có con được sống lại: Bà và gia đình bà hãy chỗi dậy và đi đến một xứ nào sống được mà sống, vì CHÚA đã định cho xứ phải chịu một cơn đói kém dài bảy năm. | |
II K | VietNVB | 8:2 | Vậy bà ấy chỗi dậy làm theo như lời của người Đức Chúa Trời đã bảo. Bà và gia đình bà đến kiều ngụ trong xứ Phi-li-tin bảy năm. | |
II K | VietNVB | 8:3 | Cuối bảy năm bà từ xứ Phi-li-tin trở về và đến kêu cầu nhà vua cho bà được phục hồi chủ quyền nhà cửa và đất đai. | |
II K | VietNVB | 8:4 | Khi ấy nhằm lúc nhà vua đang nói chuyện với Ghê-ha-xi, tôi tớ của người Đức Chúa Trời, vua hỏi: Hãy nói cho ta nghe mọi việc lớn lao mà Ê-li-sê đã làm. | |
II K | VietNVB | 8:5 | Đang khi Ghê-ha-xi kể cho vua nghe thể nào Ê-li-sê đã khiến cho một người từ cõi chết sống lại, thì người đàn bà có con được sống lại đến kêu cầu vua cho bà được phục hồi chủ quyền nhà cửa và đất đai.Ghê-ha-xi nói: Tâu vua, chúa của tôi. Đây là người đàn bà đó và đứa con trai của bà được Ê-li-sê cứu sống lại. | |
II K | VietNVB | 8:6 | Vua bèn hỏi bà và bà thuật lại mọi việc cho vua nghe.Đoạn vua chỉ thị cho một vị quan lo giải quyết lời yêu cầu của bà và dặn rằng: Hãy trả lại cho bà tất cả những gì thuộc về bà, cùng với mọi lợi tức của ruộng vườn bà, từ ngày bà lìa xứ cho đến ngày nay. | |
II K | VietNVB | 8:7 | Ê-li-sê đến Đa-mách nhằm lúc vua Bên Ha-đát của A-ram đang lâm bịnh. Khi vua nghe báo rằng: Có người của Đức Chúa Trời đã đến đây. | |
II K | VietNVB | 8:8 | Vua bèn sai Ha-xa-ên: Ngươi hãy lấy một lễ vật đến gặp người của Đức Chúa Trời, nhờ người cầu vấn với CHÚA xem ta có thể bình phục sau cơn bịnh nầy chăng? | |
II K | VietNVB | 8:9 | Vậy Ha-xa-ên đi gặp người của Đức Chúa Trời, mang theo một lễ vật, gồm những sản phẩm tốt nhất của Đa-mách, do bốn mươi con lạc đà chuyên chở. Ông đến đứng trước mặt Ê-li-sê và nói: Con trai ngài là Bên Ha-đát, vua của A-ram, có sai tôi đến cầu vấn ngài rằng: Tôi có thể bình phục sau cơn bịnh nầy chăng? | |
II K | VietNVB | 8:10 | Ê-li-sê đáp: Hãy về và nói với vua: Vua chắc chắn sẽ bình phục; nhưng CHÚA đã cho ta biết rằng vua chắc chắn sẽ chết. | |
II K | VietNVB | 8:11 | Đoạn người của Đức Chúa Trời nghiêm sắc mặt nhìn chăm chăm vào Ha-xa-ên đến nỗi ông ta phát ngượng, rồi người của Đức Chúa Trời lại cất tiếng lên khóc. | |
II K | VietNVB | 8:12 | Ha-xa-ên hỏi: Tại sao chúa tôi khóc? Ê-li-sê đáp: Bởi vì ta biết những việc ác mà ngươi sẽ làm cho dân Y-sơ-ra-ên. Ngươi sẽ thiêu đốt thành trì của họ. Ngươi sẽ giết các trai tráng của họ bằng gươm. Ngươi sẽ chà nát những trẻ thơ dưới đất. Và ngươi sẽ mổ bụng những phụ nữ có thai. | |
II K | VietNVB | 8:13 | Ha-xa-ên nói: Kẻ tôi tớ ngài là ai, chẳng qua là một con chó thôi, làm sao có thể làm được việc lớn lao như thế?Ê-li-sê nói: CHÚA đã cho ta biết rằng ngươi sẽ làm vua của A-ram. | |
II K | VietNVB | 8:14 | Sau đó ông rời khỏi Ê-li-sê mà về gặp chủ mình là Bên Ha-đát. Vua Bên Ha-đát hỏi ông: Ê-li-sê đã nói với ngươi thế nào? Ông đáp: Người ấy nói với tôi rằng vua chắc chắn sẽ khỏi bịnh. | |
II K | VietNVB | 8:15 | Nhưng ngày hôm sau, Ha-xa-ên lấy một cái mền, thấm đầy nước, đem phủ trên mặt của nhà vua cho đến khi vua ngộp thở chết, rồi ông lên ngôi thế vị làm vua. | |
II K | VietNVB | 8:16 | Vào năm thứ năm triều vua Giô-ram, con trai A-háp, trị vì ở Y-sơ-ra-ên, thì Giê-hô-ram, con trai vua Giê-hô-sa-phát, bắt đầu trị vì ở Giu-đa. | |
II K | VietNVB | 8:17 | Giê-hô-ram được ba mươi hai tuổi khi bắt đầu làm vua. Vua trị vì tám năm tại Giê-ru-sa-lem. | |
II K | VietNVB | 8:18 | Vua đi theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên, như nhà A-háp đã làm, vì vua có cưới con gái của A-háp làm vợ. Vua đã làm những việc tội lỗi trước mặt CHÚA. | |
II K | VietNVB | 8:19 | Dầu vậy CHÚA cũng không hủy diệt Giu-đa, vì cớ Đa-vít, tôi tớ Ngài, vì Ngài đã hứa với Đa-vít rằng Ngài sẽ để một ngọn đèn cho người và cho dòng dõi người mãi mãi. | |
II K | VietNVB | 8:20 | Trong thời của Giê-hô-ram, dân Ê-đôm dấy lên chống lại sự cai trị của Giu-đa và lập lấy một vua cho mình. | |
II K | VietNVB | 8:21 | Vì vậy Giê-hô-ram kéo toàn bộ xe chiến mã của mình vượt qua Xai-rơ. Dân Ê-đôm kéo đến bao vây đội quân của vua. Ban đêm vua và những sĩ quan chỉ huy các xe chiến mã của vua tấn công dân Ê-đôm, nhưng khi đội quân của vua vừa thoát khỏi vòng vây, họ đã bỏ chạy về nhà. | |
II K | VietNVB | 8:22 | Thế là dân Ê-đôm đã nổi dậy chống lại sự đô hộ của dân Giu-đa cho đến ngày nay. Đồng lúc ấy, dân ở Líp-na cũng nổi lên chống lại sự cai trị của Giu-đa. | |
II K | VietNVB | 8:23 | Tất cả những việc khác của Giê-hô-ram và mọi việc vua làm há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? | |
II K | VietNVB | 8:24 | Giê-hô-ram an giấc với các tổ phụ mình và được chôn với họ trong thành Đa-vít. A-cha-xia, con trai vua, lên ngôi kế vị. | |
II K | VietNVB | 8:25 | Năm thứ mười hai triều vua Giô-ram, con trai A-háp, trị vì ở Y-sơ-ra-ên, thì A-cha-xia, con trai vua Giê-hô-ram, bắt đầu trị vì ở Giu-đa. | |
II K | VietNVB | 8:26 | A-cha-xia được hai mươi hai tuổi khi bắt đầu làm vua. Vua trị vì được một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ của vua là A-tha-li, cháu nội của vua Ôm-ri, nước Y-sơ-ra-ên. | |
II K | VietNVB | 8:27 | Vua cũng bước đi trong đường lối của A-háp, làm những việc tội lỗi trước mặt CHÚA, giống như nhà A-háp đã làm, vì vua là con rể của nhà A-háp. | |
II K | VietNVB | 8:28 | Vua đi với vua Giô-ram, con trai A-háp, tiến đánh vua Ha-xa-ên của A-ram tại Ra-mốt Ga-la-át. Trận đó vua Giô-ram bị thương. | |
Chapter 9
II K | VietNVB | 9:1 | Lúc ấy tiên tri Ê-li-sê gọi một tiên tri đến và bảo: Hãy thắt lưng và cầm chai dầu nầy đi đến Ra-mốt Ga-la-át. | |
II K | VietNVB | 9:2 | Khi đến nơi hãy tìm Giê-hu, con trai Giê-hô-sa-phát, cháu của Nim-si. Hãy đi vào, mời người ấy rời khỏi các bạn đồng đội, đưa người ấy vào một phòng kín. | |
II K | VietNVB | 9:3 | Rồi hãy lấy chai dầu ra, đổ trên đầu người ấy và nói: CHÚA phán như vầy: Ta xức dầu cho ngươi làm vua trên Y-sơ-ra-ên. Xong rồi hãy mở cửa và chạy trốn. Chớ có chậm trễ. | |
II K | VietNVB | 9:5 | Chàng ấy đến nhằm lúc các tướng lãnh của quân đội đang hội nghị. Chàng ấy nói: Thưa tướng quân, tôi có một sứ điệp cần phải báo riêng với ngài.Giê-hu hỏi: Cho người nào trong chúng tôi?Cho ngài, thưa tướng quân. | |
II K | VietNVB | 9:6 | Vậy Giê-hu đứng dậy, đi vào phòng trong. Chàng thanh niên đổ chai dầu trên đầu của ông và nói: CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta xức dầu cho ngươi làm vua trên con dân của CHÚA, tức là dân Y-sơ-ra-ên. | |
II K | VietNVB | 9:7 | Ngươi sẽ đánh hạ nhà của chủ ngươi là A-háp. Ta sẽ báo trả cho Giê-sa-bên về máu của các tôi tớ Ta, là các tiên tri, và máu của tất cả các tôi tớ CHÚA. | |
II K | VietNVB | 9:8 | Toàn thể nhà A-háp phải bị tuyệt diệt. Ta sẽ diệt khỏi nhà A-háp mọi người nam, bất kể là nô lệ hay tự do, trong Y-sơ-ra-ên. | |
II K | VietNVB | 9:9 | Ta sẽ làm cho nhà A-háp giống như nhà của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, và giống như nhà của Bê-a-sa, con trai A-hi-gia. | |
II K | VietNVB | 9:10 | Chó sẽ ăn thịt của Giê-sa-bên trong đồng Gít-rê-ên và không ai sẽ chôn xác bà ấy.Nói xong chàng thanh niên ấy mở cửa và chạy trốn. | |
II K | VietNVB | 9:11 | Khi Giê-hu trở lại với các tướng lãnh của chủ ông, họ hỏi ông: Mọi sự đều bình an chứ? Tại sao tên khùng nầy lại đến gặp ông?Ông đáp: Anh em biết mà. Anh em biết mấy người ấy hay lải nhải thế nào mà. | |
II K | VietNVB | 9:12 | Họ nói: Ông nói dối rồi. Nào, hãy kể thật cho chúng tôi nghe đi.Vậy ông kể lại cho họ: Người ấy nói với tôi rằng, CHÚA phán như vầy: Ta xức dầu cho ngươi làm vua trên Y-sơ-ra-ên. | |
II K | VietNVB | 9:13 | Nghe thế mọi người liền vội vàng cởi áo choàng của mình, trải ra trên các bậc thang, nơi chân của Giê-hu. Đoạn họ thổi kèn và rao lên rằng: Giê-hu làm vua! | |
II K | VietNVB | 9:14 | Ấy vậy, Giê-hu, con trai Giê-hô-sa-phát, cháu của Nim-si, âm mưu làm phản Giô-ram. Lúc ấy Giô-ram với toàn thể Y-sơ-ra-ên đang phòng thủ chống lại vua Ha-xa-ên của A-ram tại Ra-mốt Ga-la-át. | |
II K | VietNVB | 9:15 | Vua Giô-ram đã lui về Gít-rê-ên để dưỡng thương, vì quân A-ram đã đả thương vua khi vua ra giao chiến với vua Ha-xa-ên của A-ram. Giê-hu nói: Nếu anh em đã muốn như thế thì xin đừng để cho người nào thoát khỏi thành đi báo tin cho Gít-rê-ên. | |
II K | VietNVB | 9:16 | Rồi Giê-hu cho thắng xe chiến mã của mình và đi đến Gít-rê-ên, là nơi Giô-ram đang nằm dưỡng bịnh. Lúc ấy vua A-cha-xia của Giu-đa xuống thăm Giô-ram cũng có mặt tại đó. | |
II K | VietNVB | 9:17 | Tại Gít-rê-ên, lính gác nơi tháp canh trông thấy đạo quân của Giê-hu tiến đến bèn báo: Tôi thấy một đạo quân đang tiến đến.Giô-ram bảo: Hãy sai một kỵ binh ra đón họ và hỏi: Mọi sự bình an chăng? | |
II K | VietNVB | 9:18 | Vậy họ sai một kỵ binh phóng ngựa ra gặp Giê-hu và nói: Vua hỏi như vầy: Có bình an chăng? Giê-hu đáp: Bình an hay không có can hệ gì đến ngươi? Hãy lui ra phía sau ta.Người lính gác nơi tháp canh lại báo: Sứ giả đã đến gặp họ rồi nhưng không thấy trở lại. | |
II K | VietNVB | 9:19 | Vua bèn sai một kỵ binh thứ hai đến với họ và nói: Vua hỏi như vầy: Có bình an chăng? Giê-hu đáp: Bình an hay không có can hệ gì đến ngươi? Hãy lui ra phía sau ta. | |
II K | VietNVB | 9:20 | Người lính gác nơi tháp canh lại báo nữa: Sứ giả đã đến gặp họ rồi nhưng không thấy trở lại. Trông cách dẫn xe thì giống như Giê-hu con của Nim-si, vì ông ấy dẫn xe chạy như điên. | |
II K | VietNVB | 9:21 | Giô-ram bảo: Hãy chuẩn bị xe cho ta. Họ chuẩn bị xe cho vua. Rồi vua Giô-ram của Y-sơ-ra-ên và vua A-cha-xia của Giu-đa ra đi, mỗi người đi xe của mình; họ cùng nhau ra đón Giê-hu. Họ gặp Giê-hu trong cánh đồng của Na-bốt, người Gít-rê-ên. | |
II K | VietNVB | 9:22 | Khi Giô-ram thấy Giê-hu thì hỏi: Hỡi Giê-hu, bình an chứ?Ông đáp: Bình an sao được khi sự thờ hình tượng của Giê-sa-bên, mẹ vua vẫn còn tiếp tục chứ? | |
II K | VietNVB | 9:23 | Giô-ram liền quay xe lại chạy trốn và la lên cho A-cha-xia hay rằng: Phản loạn. A-cha-xia ơi! | |
II K | VietNVB | 9:24 | Giê-hu giương cung, lấy hết sức lực, bắn Giô-ram trúng giữa hai vai, xuyên thủng trái tim. Vua liền quỵ xuống trên xe chiến mã của mình. | |
II K | VietNVB | 9:25 | Giê-hu bảo Bích-ca, sĩ quan tùy viên của mình: Hãy lôi xác hắn ra, đem vất vào cánh đồng của Na-bốt, người Gít-rê-ên. Ngươi còn nhớ không, khi ta và ngươi cỡi ngựa song song với nhau, đi sau lưng A-háp, cha hắn, thì có lời sấm ngôn của CHÚA nghịch lại hắn như vầy: | |
II K | VietNVB | 9:26 | Vì cớ máu của Na-bốt và máu của các con cái người mà Ta đã thấy hôm qua, CHÚA phán, Ta thề rằng Ta sẽ báo trả cho ngươi lại ngay trên cánh đồng nầy. Vậy bây giờ hãy lôi xác hắn ra và vứt hắn trên cánh đồng đó, y theo lời của CHÚA đã phán. | |
II K | VietNVB | 9:27 | Khi A-cha-xia, vua của Giu-đa thấy vậy, vua liền chạy trốn về hướng Bết Ha-gan. Giê-hu đuổi theo và nói: Hãy giết hắn luôn. Họ liền áp vào đánh vua trọng thương đang lúc vua ở trên xe chiến mã của mình, ngay tại khúc quẹo về hướng Gu-rơ, gần Gíp-lê-am. Vua chạy thoát được về đến Mê-ghi-đô thì chết ở đó. | |
II K | VietNVB | 9:28 | Các tôi tớ của A-cha-xia để xác của vua trên một chiếc xe chiến mã rồi chở về thành Giê-ru-sa-lem. Họ chôn cất vua trong mồ với các tổ phụ của vua, trong thành Đa-vít. | |
II K | VietNVB | 9:30 | Khi Giê-hu vào trong thành Gít-rê-ên, Giê-sa-bên nghe điều đó thì bà kẻ mắt và giồi tóc, rồi ra đứng nơi cửa sổ trông xuống. | |
II K | VietNVB | 9:32 | Giê-hu nhìn lên cửa sổ và nói: Ai trên đó theo ta? Ai? Có hai ba thái giám nhìn xuống Giê-hu. | |
II K | VietNVB | 9:33 | Ông bảo: Hãy quăng nó xuống. Vậy họ quăng bà xuống. Máu của bà văng ra trên tường và trên ngựa. Ngựa giẫm lên thây bà mà đi qua. | |
II K | VietNVB | 9:34 | Giê-hu đi vào, ăn và uống. Xong rồi ông bảo: Hãy đi lấy xác con đàn bà khốn kiếp đó chôn đi. Dù sao nó cũng là con gái của vua. | |
II K | VietNVB | 9:35 | Nhưng khi họ đi lo chôn bà thì họ chẳng thấy còn gì ngoài cái sọ, hai chân và hai bàn tay của bà còn lại. | |
II K | VietNVB | 9:36 | Khi họ trở vô báo cáo cho Giê-hu thì ông bảo: Đây là lời của CHÚA, mà Ngài đã phán qua tôi tớ Ngài là Ê-li, người Thi-sê-be: Trong cánh đồng ở Gít-rê-ên, chó sẽ ăn thịt Giê-sa-bên. | |
Chapter 10
II K | VietNVB | 10:1 | Vua A-háp có bảy mươi con trai sống tại Sa-ma-ri. Vậy Giê-hu viết thư gởi đến Sa-ma-ri, cho các thủ lãnh ở Gít-rê-ên, cho các trưởng lão, và cho các quan đỡ đầu các con trai A-háp. Thư rằng: | |
II K | VietNVB | 10:2 | Vì các con trai của chủ các ngươi đang ở với các ngươi, và các ngươi có quyền điều động các xe chiến mã, kỵ binh, với một thành trì kiên cố, và vũ khí. | |
II K | VietNVB | 10:3 | Vậy hãy chọn trong vòng các con trai của chủ các ngươi một người tài giỏi nhất, tôn người ấy lên ngôi vua thay cha hắn, rồi hãy ra mà chiến đấu cho nhà chủ các ngươi. | |
II K | VietNVB | 10:4 | Nhưng khi nghe thế, họ đều vô cùng kinh hãi và nói: Kìa, cả hai vua mà còn không chống cự nổi ông ấy thay, thì huống chi là chúng ta, làm sao chúng ta có thể cự lại được? | |
II K | VietNVB | 10:5 | Vậy quan tổng quản hoàng cung, quan tổng quản hoàng thành, cùng với các trưởng lão, và các quan đỡ đầu các hoàng tử, gởi sứ điệp đến Giê-hu rằng: Chúng tôi là tôi tớ của ông. Chúng tôi sẽ làm bất cứ điều gì ông dạy bảo. Chúng tôi sẽ không lập ai làm vua cả. Xin ông cứ làm điều gì ông nghĩ là phải. | |
II K | VietNVB | 10:6 | Vậy Giê-hu viết cho họ một thư thứ hai rằng: Nếu quý ông ủng hộ tôi và bằng lòng vâng phục tôi thì hãy chém đầu các con trai của chủ các ông, rồi mang đến gặp tôi tại Gít-rê-ên vào ngày mai cũng vào giờ nầy.Vả, bấy giờ bảy mươi con trai của nhà vua đang sống với những quan lớn trong hoàng thành, những vị quan ấy được giao cho trách nhiệm giáo dục các hoàng tử nầy. | |
II K | VietNVB | 10:7 | Khi bức thư đó đến với họ, họ bắt các hoàng tử và đem giết hết, cả thảy là bảy mươi người, rồi để đầu các hoàng tử ấy trong các giỏ và gởi đến Gít-rê-ên. | |
II K | VietNVB | 10:8 | Sứ giả đến báo với Giê-hu: Họ đã mang đầu của các hoàng tử đến rồi.Ông bảo: Hãy đem chất chúng thành hai đống ở hai bên cổng thành cho đến sáng mai. | |
II K | VietNVB | 10:9 | Rồi sáng hôm sau, ông ra đứng trước cổng thành và nói với dân chúng: Các người đều vô can. Chính tôi mới là kẻ âm mưu phản nghịch chủ tôi mà sát hại ông ấy. Nhưng ai đã giết những người nầy? | |
II K | VietNVB | 10:10 | Vậy bây giờ khá biết rằng, tất cả những lời mà CHÚA đã phán về nhà A-háp thì không một lời nào của CHÚA bị rơi xuống đất, nhưng CHÚA làm ứng nghiệm mọi lời Ngài đã phán ra, qua Ê-li, tôi tớ Ngài. | |
II K | VietNVB | 10:11 | Vậy Giê-hu giết tất cả những người còn lại trong nhà A-háp ở Gít-rê-ên, tất cả các quan đại thần, các bạn thiết của nhà vua, các thầy tế lễ của hoàng gia, cho đến khi không còn sót lại một ai. | |
II K | VietNVB | 10:12 | Đoạn ông lên đường tiến về thành Sa-ma-ri. Dọc đường, tại Bết Ê-két thuộc khu Giữ Chiên, | |
II K | VietNVB | 10:13 | Giê-hu gặp các bà con của vua A-cha-xia nước Giu-đa. Ông hỏi họ: Quý vị là ai?Họ trả lời: Chúng tôi là bà con của vua A-cha-xia. Chúng tôi xuống thăm các hoàng tử và các hoàng thúc. | |
II K | VietNVB | 10:14 | Ông bảo: Hãy bắt sống chúng. Người ta liền bắt sống những người ấy, rồi đem giết họ bên hố nước ở Bết Ê-két, gồm cả thảy là bốn mươi hai người. Ông không để sót lại một người nào. | |
II K | VietNVB | 10:15 | Khi rời khỏi đó, ông gặp Giê-hô-na-đáp, con trai Rê-cáp, người ấy đang đến đón ông. Ông chào ông ấy và nói: Lòng ông có chân thành với tôi như lòng tôi chân thành với ông không?Giê-hô-na-đáp trả lời: Có.Giê-hu lại nói: Nếu ông một lòng với tôi thì hãy đưa tay ông ra. Giê-hô-na-đáp bèn đưa tay ra cho Giê-hu. Giê-hu bắt tay Giê-hô-na-đáp và đỡ ông ta lên xe chiến mã của mình. | |
II K | VietNVB | 10:16 | Ông nói: Hãy đi với tôi và xem lòng nhiệt thành của tôi đối với CHÚA. Vậy Giê-hu đưa Giê-hô-na-đáp cùng đi một xe chiến mã với mình. | |
II K | VietNVB | 10:17 | Khi ông đến Sa-ma-ri, ông giết tất cả những người thuộc về nhà A-háp tại Sa-ma-ri, cho đến khi ông diệt sạch nhà ấy, y như lời của CHÚA đã phán ra bởi Ê-li. | |
II K | VietNVB | 10:18 | Đoạn Giê-hu triệu tập toàn dân lại và nói: A-háp phụng thờ Ba-anh còn ít quá, Giê-hu sẽ phụng thờ Ba-anh nhiều hơn. | |
II K | VietNVB | 10:19 | Vậy bây giờ hãy triệu tập cho ta tất cả những tiên tri của Ba-anh, tất cả người phục vụ Ba-anh, và tất cả thầy tế lễ của Ba-anh. Không ai được vắng mặt. Hễ ai vắng mặt thì sẽ không sống nữa. Nhưng Giê-hu chỉ lập mưu để tận diệt những kẻ thờ Ba-anh mà thôi. | |
II K | VietNVB | 10:20 | Giê-hu truyền cho họ: Hãy triệu tập một đại hội thật trọng thể để thờ phượng thần Ba-anh. Vậy người ta truyền rao tin đó. | |
II K | VietNVB | 10:21 | Giê-hu sai người đi khắp nước Y-sơ-ra-ên loan báo, nên tất cả những kẻ thờ phượng Ba-anh tề tựu về đông đủ, không thiếu một ai. Họ vào trong đền thờ thần Ba-anh đông nghẹt từ đầu nầy đến đầu kia. | |
II K | VietNVB | 10:22 | Giê-hu bảo người phụ trách lễ phục: Hãy đem lễ phục ra phân phát cho mọi người đến thờ phượng thần Ba-anh. Vậy người ấy đem các lễ phục ra phân phát cho họ. | |
II K | VietNVB | 10:23 | Rồi Giê-hu cùng với Giê-hô-na-đáp, con trai Rê-cáp, đi vào đền thờ của Ba-anh; ông nói với họ: Hãy lục soát kỹ xem, có tôi tớ nào của CHÚA ở đây không. Ở đây chỉ có những người thờ phượng thần Ba-anh mà thôi. | |
II K | VietNVB | 10:24 | Xong rồi họ bắt đầu nghi lễ dâng các lễ vật và các của lễ thiêu.Vả, Giê-hu đã đặt tám mươi dũng sĩ nằm phục bên ngoài và dặn: Nếu các ngươi để bất cứ người nào trong những người ta trao vào tay các ngươi chạy thoát thì sinh mạng của các ngươi sẽ đền bù cho sinh mạng của người đó. | |
II K | VietNVB | 10:25 | Vừa khi Giê-hu dâng của lễ thiêu xong thì ông truyền lịnh cho các vệ sĩ và các quan tướng chỉ huy: Hãy vào và giết hết chúng. Chớ để một ai chạy thoát. Vậy họ xông vào dùng gươm giết chúng. Các vệ sĩ và các quan tướng liệng thây chúng ra ngoài; rồi họ xông vào cung thánh của đền thờ Ba-anh. | |
II K | VietNVB | 10:27 | Xong rồi họ đập nát tượng Ba-anh, phá hủy đền thờ của Ba-anh, và biến nó thành một nơi xú uế cho đến ngày nay. | |
II K | VietNVB | 10:29 | Nhưng Giê-hu không dứt bỏ các tội của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, đã gây cho dân Y-sơ-ra-ên phạm tội. Đó là sự thờ phượng các con bò vàng ở Bê-tên và Đan. | |
II K | VietNVB | 10:30 | CHÚA phán với Giê-hu: Bởi vì ngươi đã làm tốt điều Ta cho là chánh đáng, xử trị nhà A-háp hợp với lòng Ta, cho nên con cháu ngươi sẽ ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên cho đến đời thứ tư. | |
II K | VietNVB | 10:31 | Nhưng Giê-hu không hết lòng cẩn thận làm theo Kinh Luật của CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Ông không lìa bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am, là kẻ đã xui cho dân Y-sơ-ra-ên phạm tội. | |
II K | VietNVB | 10:32 | Trong thuở ấy, CHÚA bắt đầu giảm bớt địa phận của Y-sơ-ra-ên. Ha-xa-ên đánh bại họ trên toàn lãnh thổ Y-sơ-ra-ên và chiếm lấy vùng | |
II K | VietNVB | 10:33 | từ phía đông sông Giô-đanh trở đi, toàn lãnh thổ Ga-la-át, địa phận của chi tộc Gát, chi tộc Ru-bên, và chi tộc Ma-na-se; từ A-rô-e, tức từ bờ suối Ạt-nôn cho đến cả vùng Ga-la-át và Ba-san. | |
II K | VietNVB | 10:34 | Tất cả các việc khác của Giê-hu, mọi việc vua làm, mọi quyền thế của vua há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? | |
II K | VietNVB | 10:35 | Vậy Giê-hu an giấc với các tổ phụ mình. Người ta chôn vua tại Sa-ma-ri. Con trai vua là Giô-a-cha lên ngôi kế vị. | |
Chapter 11
II K | VietNVB | 11:1 | Khi ấy, A-tha-li là mẹ của vua A-cha-xia, thấy con mình đã chết, nên bà chỗi dậy giết tất cả mọi người trong hoàng tộc. | |
II K | VietNVB | 11:2 | Nhưng Giô-sê-ba, con gái vua Giô-ram, tức là chị của vua A-cha-xia, bắt trộm Giô-ách, con trai vua A-cha-xia, khỏi vòng các hoàng tử mà A-tha-li toan giết. Bà giấu Giô-ách và người vú trong một phòng ngủ. Như vậy bà giấu Giô-ách khỏi tay A-tha-li, nên Giô-ách không bị giết. | |
II K | VietNVB | 11:3 | Giô-ách ở với bà sáu năm như thế, được giấu trong đền thờ của CHÚA, trong khi A-tha-li cai trị trên xứ. | |
II K | VietNVB | 11:4 | Đến năm thứ bảy, Giê-hô-gia-đa mời các vị chỉ huy một trăm quân thuộc đội quân Ca-ri, và các vị chỉ huy quân hộ vệ đến gặp ông trong đền thờ CHÚA. Ông lập một giao ước với họ và buộc họ thề nguyện với ông trong đền thờ CHÚA, xong ông giới thiệu hoàng tử cho họ. | |
II K | VietNVB | 11:5 | Ông truyền rằng: Đây là những điều quý ông sẽ làm: một phần ba quý ông đến phiên trực ngày Sa-bát sẽ bảo vệ nơi vua ở. | |
II K | VietNVB | 11:6 | Một phần ba khác sẽ canh giữ ở cổng Su-rơ, một phần ba còn lại sẽ canh giữ cổng phía sau quân hộ vệ. Ba đơn vị cứ luân phiên nhau canh giữ đền thờ. | |
II K | VietNVB | 11:7 | Hai đơn vị đáng lý được hết phiên trực trong ngày Sa-bát thì bây giờ sẽ đến canh giữ đền thờ CHÚA để bảo vệ vua. | |
II K | VietNVB | 11:8 | Quý ông phải bao quanh đức vua, người nào cũng cầm binh khí trong tay. Hễ ai xông vào hàng ngũ của quý ông thì hãy giết thẳng tay. Mỗi khi vua đi ra đi vào thì quý ông cũng phải đi theo để hộ vệ. | |
II K | VietNVB | 11:9 | Các vị chỉ huy làm y như lời thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa đã truyền. Mỗi người đem quân của mình đến, quân đang phiên trực trong ngày Sa-bát hoặc quân hết phiên trực trong ngày Sa-bát, đều cùng nhau đến với thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa. | |
II K | VietNVB | 11:10 | Thầy tế lễ trao cho các vị chỉ huy những giáo và khiên của vua Đa-vít, được cất giữ lâu nay trong đền thờ CHÚA. | |
II K | VietNVB | 11:11 | Các quân hộ vệ, tay cầm binh khí, đứng từ phía nam của đền thờ cho đến phía bắc của đền thờ, họ cũng đứng phía trước bàn thờ và phía trước đền thờ nữa, để bảo vệ vua mọi phía. | |
II K | VietNVB | 11:12 | Đoạn Giê-hô-gia-đa đưa hoàng tử ra, đội vương miện cho hoàng tử, trao cho hoàng tử một bộ luật và tuyên bố rằng người là vua. Họ xức dầu cho người, rồi vỗ tay và tung hô: Đức Vua Vạn Tuế! | |
II K | VietNVB | 11:13 | Khi A-tha-li nghe tiếng huyên náo của quân hộ vệ và dân chúng thì bà đến đền thờ CHÚA để gặp dân chúng. | |
II K | VietNVB | 11:14 | Bà thấy, kìa vua đang đứng trên bệ cao, theo lễ nghi xưa nay, có các vị chỉ huy và ban nhạc kèn đứng bên cạnh vua; mọi người trong xứ đang vui mừng và kèn thổi rền vang. A-tha-li bèn xé áo mình và la lên: Phản tặc! Phản tặc! | |
II K | VietNVB | 11:15 | Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa truyền cho các vị chỉ huy quân đội: Hãy lôi bà ấy ra khỏi hàng quân và hễ kẻ nào theo bà ấy thì cứ dùng gươm giết chết. Vì thầy tế lễ có bảo: Đừng cho bà ấy được chết trong đền thờ CHÚA. | |
II K | VietNVB | 11:16 | Vậy họ bắt bà, khi bà qua cổng dành cho ngựa vào hoàng cung, thì họ giết bà tại đó. | |
II K | VietNVB | 11:17 | Giê-hô-gia-đa lập một giao ước giữa CHÚA với vua và dân để toàn dân được làm con dân của CHÚA. Ông cũng lập một giao ước giữa vua với dân. | |
II K | VietNVB | 11:18 | Đoạn toàn dân trong xứ kéo nhau đến đền thờ của Ba-anh và phá dỡ nó xuống. Họ đập nát các bàn thờ và các hình tượng của Ba-anh ra thành mảnh vụn. Họ giết Ma-than, thầy tế lễ của Ba-anh, trước các bàn thờ.Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa đặt quân đội bảo vệ quanh đền thờ CHÚA. | |
II K | VietNVB | 11:19 | Ông đem các vị chỉ huy trăm quân, đội quân Ca-ri, các toán quân hộ vệ, và tất cả dân chúng trong xứ đến rước vua từ đền thờ CHÚA xuống rồi tiến về hoàng cung đi qua lối vào của cổng dành cho quân hộ vệ. Vua ngự lên ngai vua. | |
II K | VietNVB | 11:20 | Vậy toàn dân trong xứ đều vui mừng, rồi kinh thành yên tĩnh trở lại, sau khi A-tha-li đã bị giết bằng gươm tại hoàng cung. | |
Chapter 12
II K | VietNVB | 12:1 | Năm thứ bảy triều Giê-hu, Giô-ách lên ngôi làm vua. Vua trị vì bốn mươi hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu của vua là bà Xi-bia, quê ở Bê-e Sê-ba. | |
II K | VietNVB | 12:2 | Giô-ách làm điều lành trước mặt Chúa trọn đời mình, bởi vì có thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa dạy dỗ vua. | |
II K | VietNVB | 12:3 | Tuy nhiên, các tế đàn trên những nơi cao vẫn chưa được dỡ đi. Dân chúng vẫn còn đến dâng sinh tế và dâng của lễ trên những tế đàn ấy. | |
II K | VietNVB | 12:4 | Giô-ách nói cùng các thầy tế lễ: Tất cả tiền bạc dâng hiến làm của lễ thánh trong đền thờ CHÚA, gồm tiền đóng góp cá nhân được quy định cho mỗi người và tiền do các cá nhân tự ý dâng hiến cho đền thờ CHÚA. | |
II K | VietNVB | 12:5 | Xin các thầy tế lễ hãy thu nhận từ những người dâng hiến, rồi dùng số tiền đó sửa sang lại đền thờ ở những chỗ nào thấy bị hư hại. | |
II K | VietNVB | 12:6 | Nhưng đến năm thứ hai mươi ba của triều vua Giô-ách, các thầy tế lễ không sửa sang đền thờ nữa. | |
II K | VietNVB | 12:7 | Vì vậy vua Giô-ách triệu thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa và những thầy tế lễ đến và hỏi: Tại sao quý vị không tu bổ đền thờ nữa? Thế thì từ nay quý vị đừng nhận tiền từ những người dâng hiến nữa, nhưng hãy để tiền đó cho việc sửa sang đền thờ. | |
II K | VietNVB | 12:8 | Thế là các thầy tế lễ đồng ý rằng từ đó trở đi họ sẽ không nhận tiền dâng hiến của dân chúng và cũng không chịu trách nhiệm việc sửa sang đền thờ nữa. | |
II K | VietNVB | 12:9 | Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa bèn lấy một cái rương, đục một lỗ trên nắp, rồi để nó bên cạnh bàn thờ, khi người ta bước vào đền thờ Chúa thì thấy nó ở bên phải. Những thầy tế lễ canh cửa đền thờ bỏ vào đó tất cả số tiền người ta đem dâng cho đền thờ Chúa. | |
II K | VietNVB | 12:10 | Khi nào người ta thấy rương đầy tiền, thì quan bí thư của vua và vị Thượng Tế đi lên, đếm tiền trong rương của đền thờ CHÚA, bỏ vào bao và cột lại. | |
II K | VietNVB | 12:11 | Sau khi họ đã định giá, họ trao số tiền đó vào tay những người quản cai các thợ sửa sang đền thờ CHÚA. Những người ấy dùng tiền đó trả cho các thợ mộc và thợ xây cất, là những thợ làm việc nơi đền thờ CHÚA. | |
II K | VietNVB | 12:12 | Họ cũng trả cho những thợ nề và thợ đá. Họ dùng tiền đó mua gỗ và đá đã đẽo sẵn để sửa chữa những chỗ hư nứt nơi đền thờ CHÚA, và trang trải tất cả những phí tổn trong việc tu bổ đền thờ. | |
II K | VietNVB | 12:13 | Người ta không dùng những số tiền đem dâng cho đền thờ CHÚA nầy để sắm những chậu bạc, dao kéo cắt tim đèn, bát rảy, kèn, hay bất cứ vật dụng bằng vàng hoặc bằng bạc nào cho đền thờ CHÚA, | |
II K | VietNVB | 12:14 | mà chỉ trao cho những người phụ trách công việc sửa chữa để chi phí cho việc sửa sang đền thờ CHÚA thôi. | |
II K | VietNVB | 12:15 | Họ không bắt những người quản cai việc trả lương cho nhân công phải tính sổ vì những người ấy làm việc rất ngay thật. | |
II K | VietNVB | 12:16 | Họ không đem những tiền thuộc của lễ chuộc lỗi và của lễ chuộc tội vào đền thờ CHÚA, vì những tiền ấy thuộc về các thầy tế lễ. | |
II K | VietNVB | 12:17 | Lúc ấy vua Ha-xa-ên của A-ram đi lên, tấn công Gát, và chiếm lấy địa phận nầy. Sau đó Ha-xa-ên dẫn quân tiến đánh Giê-ru-sa-lem. | |
II K | VietNVB | 12:18 | Vua Giô-ách của Giu-đa bèn lấy tất cả những vật thánh của các tiên vương là Giê-hô-sa-phát, Giê-hô-ram, và A-cha-xia, các vua Giu-đa đã dâng hiến, cùng với những vật thánh mà chính vua đã dâng, tất cả vàng trong các kho của đền thờ Chúa và của hoàng cung, mà đem nộp hết cho vua Ha-xa-ên của A-ram. Bấy giờ Ha-xa-ên mới chịu rút lui khỏi Giê-ru-sa-lem. | |
II K | VietNVB | 12:19 | Những việc khác của Giô-ách, và tất cả những việc vua thực hiện, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? | |
II K | VietNVB | 12:20 | Các tôi tớ của vua nổi loạn, lập mưu phản nghịch, ám sát vua trong điện Mi-lô, trên con đường đi xuống Si-la. | |
Chapter 13
II K | VietNVB | 13:1 | Vào năm thứ hai mươi ba triều vua Giô-ách, con trai A-cha-xia, nước Giu-đa, thì Giô-a-cha, con trai Giê-hu, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri. Vua trị vì mười bảy năm. | |
II K | VietNVB | 13:2 | Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, đi theo những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là những tội lỗi mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội. Vua chẳng dứt bỏ những tội lỗi đó. | |
II K | VietNVB | 13:3 | Cơn giận của CHÚA nổi lên cùng Y-sơ-ra-ên. Ngài phó họ vào tay Ha-xa-ên, vua A-ram, và vào tay Bên Ha-đát, con của Ha-xa-ên, suốt thời hai vua đó. | |
II K | VietNVB | 13:4 | Bấy giờ Giô-a-cha cầu khẩn với CHÚA, và Chúa nhậm lời vua; vì Ngài có thấy nỗi áp bức mà dân Y-sơ-ra-ên phải gánh chịu, thể nào vua A-ram đã đàn áp họ. | |
II K | VietNVB | 13:5 | Vì thế CHÚA đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên một người giải cứu, để họ thoát ra khỏi quyền lực của dân A-ram, và mọi người trong Y-sơ-ra-ên được sống an lạc dưới mái nhà mình như ngày trước. | |
II K | VietNVB | 13:6 | Tuy nhiên, họ vẫn không từ bỏ những tội lỗi của nhà Giê-rô-bô-am, mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội, nhưng họ cứ phạm các tội lỗi đó; đến nỗi trụ thờ thần A-sê-ra vẫn còn đứng sừng sững tại Sa-ma-ri. | |
II K | VietNVB | 13:7 | Chúa để cho đội quân của Giô-a-cha chỉ còn lại năm mươi kỵ binh, mười xe chiến mã, và mười ngàn bộ binh. Vì vua của A-ram có tiêu diệt họ, nghiền nát họ như bụi nơi sân đập lúa. | |
II K | VietNVB | 13:8 | Những việc khác của Giô-a-cha, những việc vua thực hiện, quyền lực của vua, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? | |
II K | VietNVB | 13:9 | Giô-a-cha an giấc với các tổ phụ mình và được chôn tại Sa-ma-ri. Giê-hô-ách, con trai vua, lên ngôi kế vị. | |
II K | VietNVB | 13:10 | Năm thứ ba mươi bảy triều vua Giô-ách của Giu-đa, thì Giê-hô-ách, con trai Giô-a-cha, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri. Vua trị vì mười sáu năm. | |
II K | VietNVB | 13:11 | Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA. Vua chẳng từ bỏ những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là những tội lỗi mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội, nhưng vua cứ đi theo đường tội lỗi đó. | |
II K | VietNVB | 13:12 | Những việc khác của Giê-hô-ách, tất cả những việc vua làm, những chiến công của vua khi đánh với vua A-ma-xia của Giu-đa, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? | |
II K | VietNVB | 13:13 | Giê-hô-ách an giấc với các tổ phụ mình, rồi Giê-rô-bô-am lên ngôi kế vị. Giê-hô-ách được chôn tại Sa-ma-ri, cùng chỗ với các vua của Y-sơ-ra-ên. | |
II K | VietNVB | 13:14 | Khi ấy Ê-li-sê lâm bịnh và cơn bịnh ấy khiến cho ông qua đời. Vua Giê-hô-ách của Y-sơ-ra-ên xuống thăm ông. Vua khóc trước mặt ông và than rằng: Cha ơi! Cha ơi! Những xe chiến mã và những kỵ binh của Y-sơ-ra-ên ơi! | |
II K | VietNVB | 13:16 | Ông nói với vua Y-sơ-ra-ên: Xin vua hãy giương cung lên. Vua bèn giương cung. Ê-li-sê đặt tay ông trên tay vua, | |
II K | VietNVB | 13:17 | rồi bảo: Xin vua hãy mở cửa sổ về hướng đông. Vua đến mở cửa sổ. Ê-li-sê nói: Vua hãy bắn đi. Vua liền bắn. Bấy giờ Ê-li-sê nói: Ấy là mũi tên chiến thắng của CHÚA, mũi tên chiến thắng dân A-ram. Vì vua sẽ đánh bại dân A-ram tại A-phéc cho đến khi vua tận diệt họ. | |
II K | VietNVB | 13:18 | Ông nói tiếp: Xin vua hãy lấy một bó tên. Vua lấy ra một bó tên. Ông nói với vua Y-sơ-ra-ên: Hãy đập chúng xuống đất. Vua đập chúng xuống đất ba lần rồi ngừng lại. | |
II K | VietNVB | 13:19 | Bấy giờ người của Đức Chúa Trời nổi giận với vua và nói: Đáng lẽ vua phải đập năm hay sáu lần thì vua mới có thể tận diệt họ được, nhưng bây giờ vua chỉ có thể đánh bại dân A-ram được ba lần thôi. | |
II K | VietNVB | 13:20 | Đoạn Ê-li-sê qua đời. Người ta đem chôn ông.Thuở ấy, cứ mỗi độ xuân sang, các toán quân Mô-áp hay xâm nhập vào xứ. | |
II K | VietNVB | 13:21 | Nhằm lúc người ta đem chôn một người chết thì thấy một toán quân cướp đến, họ liền ném thây của người chết đó vào mộ của Ê-li-sê để chạy trốn. Vừa khi thây của người chết đụng vào hài cốt của Ê-li-sê, thì người chết đó liền sống lại và đứng dậy. | |
II K | VietNVB | 13:23 | Nhưng CHÚA đã dủ lòng nhân của Ngài đối với họ, Ngài thương xót họ, và đoái đến họ, bởi vì giao ước của Ngài đối với Áp-ra-ham, I-sác, và Gia-cốp, nên Ngài không diệt họ và không cất họ khỏi trước mặt Ngài cho đến bấy giờ. | |
Chapter 14
II K | VietNVB | 14:1 | Vào năm thứ hai triều vua Giê-hô-ách, con trai Giô-a-cha của Y-sơ-ra-ên, thì A-ma-xia, con trai Giô-ách, vua Giu-đa, lên ngôi làm vua. | |
II K | VietNVB | 14:2 | Vua được hai mươi lăm tuổi khi bắt đầu trị vì và vua trị vì hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu của vua là bà Giê-hoa-đan, người Giê-ru-sa-lem. | |
II K | VietNVB | 14:3 | Vua làm điều ngay lành trước mặt CHÚA, nhưng không được như Đa-vít, tổ phụ vua, mà vua chỉ làm như những điều Giô-ách, cha vua, đã làm. | |
II K | VietNVB | 14:4 | Các tế đàn trên những nơi cao vẫn chưa được dẹp bỏ. Dân chúng vẫn còn đến dâng sinh tế và dâng hương trên những tế đàn ấy. | |
II K | VietNVB | 14:5 | Khi thấy vương quyền đã được nắm vững trong tay, vua cho xử tử những bầy tôi đã sát hại vua cha. | |
II K | VietNVB | 14:6 | Nhưng vua không giết con cái của những kẻ sát nhân ấy, theo như đã chép trong sách Kinh Luật của Môi-se, trong đó CHÚA đã truyền rằng: Người ta sẽ không giết cha mẹ vì tội của con cái, và cũng không giết con cái vì tội của cha mẹ; nhưng ai nấy đều sẽ bị giết vì tội của chính mình. | |
II K | VietNVB | 14:7 | Vua đã đánh hạ mười ngàn người Ê-đôm trong Thung Lũng Muối và đánh chiếm Sê-la, rồi đặt tên cho thành đó là Giốc-then, và người ta vẫn còn gọi như thế cho đến ngày nay. | |
II K | VietNVB | 14:8 | Bấy giờ A-ma-xia sai sứ giả đến nói với Giê-hô-ách, con trai Giô-a-cha, cháu của Giê-hu, đang làm vua của Y-sơ-ra-ên rằng: Hãy đến, để chúng ta đối mặt đọ sức với nhau. | |
II K | VietNVB | 14:9 | Vua Giê-hô-ách của Y-sơ-ra-ên sai sứ giả trả lời A-ma-xia vua Giu-đa rằng: Một bụi gai ở Li-ban có gởi lời đến nói với cây bá hương của Li-ban như vầy: Hãy gả con gái ngươi làm vợ cho con trai ta. Nhưng có một con thú rừng ở Li-ban đi ngang qua và đạp nát bụi gai đó. | |
II K | VietNVB | 14:10 | Vua quả đã đánh bại dân Ê-đôm, nên bây giờ lòng vua sinh ra kiêu ngạo. Hãy ở nhà mà vênh vang với chiến thắng của mình. Tại sao vua lại muốn khiêu khích cho tai họa giáng xuống trên mình, trên vua và trên cả dân Giu-đa đi với vua? | |
II K | VietNVB | 14:11 | Nhưng A-ma-xia chẳng khứng nghe. Vậy, vua Giê-hô-ách của Y-sơ-ra-ên đi lên. Vua và vua A-ma-xia đối diện với nhau trong trận chiến tại Bết Sê-mết, trong đất Giu-đa. | |
II K | VietNVB | 14:12 | Quân Giu-đa bị quân Y-sơ-ra-ên đánh bại. Mọi người đều bỏ trốn, chạy về nhà mình. | |
II K | VietNVB | 14:13 | Vua Giê-hô-ách bắt sống A-ma-xia, con trai Giô-ách, cháu A-cha-xia, vua Giu-đa tại Bết Sê-mết, rồi kéo quân đến Giê-ru-sa-lem, phá dỡ tường thành Giê-ru-sa-lem từ cổng Ép-ra-im cho đến cổng Góc, tạo một khoảng trống dài hai trăm thước. | |
II K | VietNVB | 14:14 | Vua chiếm đoạt tất cả vàng bạc, tất cả những vật dụng để trong đền thờ CHÚA và trong các kho tàng của hoàng cung. Vua cũng bắt theo một số người làm con tin, rồi rút về lại Sa-ma-ri. | |
II K | VietNVB | 14:15 | Những việc khác mà Giê-hô-ách đã làm, chiến công của vua, và thể nào vua đã đánh bại vua A-ma-xia của Giu-đa, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? | |
II K | VietNVB | 14:16 | Giê-hô-ách an giấc với các tổ phụ mình và được chôn tại Sa-ma-ri, cùng chỗ với các vua của Y-sơ-ra-ên. Rồi con trai của vua là Giê-rô-bô-am lên ngôi kế vị. | |
II K | VietNVB | 14:17 | Còn vua A-ma-xia, con trai Giô-ách của Giu-đa sống thêm mười lăm năm nữa, sau khi vua Giê-hô-ách, con của Giô-a-cha, vua Y-sơ-ra-ên băng hà. | |
II K | VietNVB | 14:18 | Tất cả những việc khác của A-ma-xia há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? | |
II K | VietNVB | 14:19 | Ở Giê-ru-sa-lem người ta lập một âm mưu chống lại vua A-ma-xia. Vua phải bỏ trốn đến La-chi. Nhưng họ đuổi theo vua đến tận La-chi và hạ sát vua tại đó. | |
II K | VietNVB | 14:20 | Đoạn họ để xác vua trên lưng ngựa và chở về Giê-ru-sa-lem. Họ chôn vua tại Giê-ru-sa-lem với các tổ phụ vua trong thành Đa-vít. | |
II K | VietNVB | 14:21 | Toàn dân Giu-đa lập A-xa-ria, mười sáu tuổi, lên ngôi làm vua kế vị cho cha là A-ma-xia. | |
II K | VietNVB | 14:22 | Sau khi vua A-ma-xia an giấc với các tổ phụ mình, vua A-xa-ria xây lại thành Ê-lát và thâu hồi nó lại dưới chủ quyền của Giu-đa. | |
II K | VietNVB | 14:23 | Vào năm thứ mười lăm triều vua A-ma-xia, con trai Giô-ách, vua Giu-đa, thì Giê-rô-bô-am, con trai Giê-hô-ách của Y-sơ-ra-ên lên ngôi làm vua tại Sa-ma-ri. Vua trị vì bốn mươi mốt năm. | |
II K | VietNVB | 14:24 | Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA. Vua không từ bỏ các tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là những tội lỗi mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội. | |
II K | VietNVB | 14:25 | Vua lập lại biên thùy cho Y-sơ-ra-ên, từ ải Ha-mát cho đến bờ biển Ả-rập, theo như lời của CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã phán bởi tôi tớ Ngài là tiên tri Giô-na, con trai A-mi-tai, người ở Gát Hê-phê. | |
II K | VietNVB | 14:26 | Vì CHÚA đã thấy nỗi hoạn nạn mà Y-sơ-ra-ên phải chịu thật cay đắng; chẳng có một ai, dù là nô lệ hay tự do, để giúp đỡ Y-sơ-ra-ên cả. | |
II K | VietNVB | 14:27 | Vì Chúa nói rằng Ngài sẽ không xóa tên họ dưới trời, nên Ngài đã dùng tay của Giê-rô-bô-am, con trai Giê-hô-ách, để giải cứu họ. | |
II K | VietNVB | 14:28 | Tất cả những việc khác của Giê-rô-bô-am, tất cả những việc vua làm, quyền lực của vua, thể nào vua đã chiến đấu, thể nào vua đã thâu hồi Đa-mách và Ha-mát, vốn thuộc Giu-đa, trở lại dưới chủ quyền của Y-sơ-ra-ên, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? | |
Chapter 15
II K | VietNVB | 15:1 | Năm thứ hai mươi bảy triều vua Giê-rô-bô-am của Y-sơ-ra-ên, thì A-xa-ria, con trai A-ma-xia, lên ngôi làm vua Giu-đa. | |
II K | VietNVB | 15:2 | Vua được mười sáu tuổi khi mới lên ngôi và trị vì năm mươi hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu của vua là bà Giê-cô-lia, người Giê-ru-sa-lem. | |
II K | VietNVB | 15:3 | Vua làm điều ngay lành trước mặt CHÚA, như thân phụ của vua là vua A-ma-xia đã làm. | |
II K | VietNVB | 15:4 | Dầu vậy những tế đàn trên các nơi cao vẫn chưa được dẹp bỏ. Dân chúng vẫn còn đến dâng tế lễ và dâng hương trên những tế đàn ấy. | |
II K | VietNVB | 15:5 | CHÚA phạt vua mắc bịnh phung cho đến ngày băng hà. Vua sống biệt lập trong một nhà riêng. Giô-tham, con trai vua, điều hành việc triều chính và quản trị dân trong nước. | |
II K | VietNVB | 15:6 | Tất cả những việc khác của A-xa-ria, tất cả những việc vua làm, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? | |
II K | VietNVB | 15:7 | A-xa-ria an giấc với các tổ phụ mình. Người ta chôn vua với các tổ phụ của vua trong thành Đa-vít. Giô-tham, con trai vua, lên ngôi kế vị. | |
II K | VietNVB | 15:8 | Năm thứ ba mươi tám triều vua A-xa-ria của Giu-đa, Xa-cha-ri, con trai Giê-rô-bô-am, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên. Vua trị vì tại Sa-ma-ri được sáu tháng. | |
II K | VietNVB | 15:9 | Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, như các tổ phụ của vua đã làm. Vua chẳng từ bỏ những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là những tội lỗi mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội. | |
II K | VietNVB | 15:10 | Sa-lum, con trai Gia-bê, lập mưu phản nghịch vua, hạ sát vua trước mặt dân chúng, rồi lên ngôi thế vị. | |
II K | VietNVB | 15:11 | Những việc khác của vua Xa-cha-ri đều đã ghi trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên. | |
II K | VietNVB | 15:12 | Như thế là ứng nghiệm lời của CHÚA đã phán cho Giê-hu rằng: Dòng dõi ngươi sẽ được ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên cho đến đời thứ tư. Điều đó đã xảy ra như vậy. | |
II K | VietNVB | 15:13 | Năm thứ ba mươi chín triều vua Ô-xia của Giu-đa, Sa-lum, con trai Gia-bê, lên ngôi làm vua và trị vì được một tháng tại Sa-ma-ri. | |
II K | VietNVB | 15:14 | Bấy giờ Mê-na-hem, con trai Ga-đi, từ Tiệt-sa kéo lên Sa-ma-ri, đánh bại Sa-lum, con trai Gia-bê, ngay ở Sa-ma-ri, giết chết vua đi, rồi lên ngôi thế vị. | |
II K | VietNVB | 15:15 | Những việc khác của vua Sa-lum, kể cả âm mưu do vua chủ xướng, đều được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên. | |
II K | VietNVB | 15:16 | Sau đó Mê-na-hem xuất quân từ Tiệt-sa đến tấn công thành Típ-sắc, cướp phá mọi người trong thành và những người sống trong địa hạt thuộc về thành ấy; bởi vì trước đó họ không chịu mở cửa thành tiếp rước vua, nên vua đánh phạt họ. Vua cho mổ bụng tất cả những phụ nữ mang thai trong thành. | |
II K | VietNVB | 15:17 | Năm thứ ba mươi chín triều vua A-xa-ria của Giu-đa, thì Mê-na-hem, con trai Ga-đi, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên. Vua trị vì mười năm tại Sa-ma-ri. | |
II K | VietNVB | 15:18 | Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA. Vua chẳng từ bỏ những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là những tội lỗi mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội. | |
II K | VietNVB | 15:19 | Phun, vua A-si-ri, xâm lăng xứ. Mê-na-hem nộp cho Phun 30.000kg bạc, để vua ấy giúp vua được tiếp tục giữ vững vương quyền. | |
II K | VietNVB | 15:20 | Mê-na-hem thu góp số bạc ấy nơi dân Y-sơ-ra-ên, tức nơi những người giàu có. Mỗi người phải đóng góp 600gm bạc, để nộp cho vua A-si-ri. Vậy vua A-si-ri lui quân về và không ở lại trong xứ. | |
II K | VietNVB | 15:21 | Những việc khác của Mê-na-hem, tất cả những việc vua làm, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? | |
II K | VietNVB | 15:22 | Mê-na-hem an giấc với các tổ phụ mình, và Phê-ca-hia, con trai vua, lên ngôi kế vị. | |
II K | VietNVB | 15:23 | Năm thứ năm mươi triều vua A-xa-ria của Giu-đa, thì Phê-ca-hia, con trai Mê-na-hem, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên. Vua trị vì tại Sa-ma-ri được hai năm. | |
II K | VietNVB | 15:24 | Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA. Vua chẳng từ bỏ những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là những tội lỗi mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội. | |
II K | VietNVB | 15:25 | Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, Tổng Tư Lệnh quân đội của vua, lập mưu phản lại vua. Ông ấy dẫn năm mươi người quê ở Ga-la-át tấn công vào chiến lũy của hoàng cung tại Sa-ma-ri, giết chết vua cùng với Ạt-gốp và A-ri-ê. Rồi ông ta lên ngôi thế vị. | |
II K | VietNVB | 15:26 | Những việc khác của Phê-ca-hia, tất cả những việc vua làm, đều được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên. | |
II K | VietNVB | 15:27 | Năm thứ năm mươi hai triều vua A-xa-ria của Giu-đa, thì Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên. Vua trị vì tại Sa-ma-ri được hai mươi năm. | |
II K | VietNVB | 15:28 | Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA. Vua chẳng từ bỏ những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là những tội lỗi mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội. | |
II K | VietNVB | 15:29 | Trong thời vua Phê-ca trị vì trên Y-sơ-ra-ên, Tiếc-lác Phi-lê-se, vua A-si-ri, đến và chiếm lấy I-giôn, A-bên Bết Ma-ca, Gia-nô-a, Kê-đe, Hát-so, Ga-la-át, và Ga-li-lê, cùng cả địa phận của Nép-ta-li. Vua ấy bắt dân những nơi đó dẫn về A-si-ri lưu đày. | |
II K | VietNVB | 15:30 | Bấy giờ, Ô-sê, con trai Ê-la, lập mưu phản nghịch Phê-ca, con trai Rê-ma-lia. Ông ấy tấn công và giết hạ vua, rồi lên ngôi thế vị, nhằm vào năm thứ hai mươi triều vua Giô-tham, con trai Ô-xia. | |
II K | VietNVB | 15:31 | Những việc khác của Phê-ca, tất cả những việc vua làm, đều được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên. | |
II K | VietNVB | 15:32 | Năm thứ hai triều vua Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, của Y-sơ-ra-ên, thì Giô-tham, con trai Ô-xia, lên ngôi làm vua Giu-đa. | |
II K | VietNVB | 15:33 | Vua được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu của vua là bà Giê-ru-sa, con gái của Xa-đốc. | |
II K | VietNVB | 15:35 | Dầu vậy, những tế đàn trên các nơi cao vẫn chưa được trừ bỏ. Dân chúng vẫn còn đến dâng tế lễ và dâng hương trên những tế đàn đó. Vua xây một cổng thượng cho đền thờ CHÚA. | |
II K | VietNVB | 15:36 | Những việc khác của Giô-tham, tất cả những việc vua làm, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? | |
II K | VietNVB | 15:37 | Trong thời ấy, CHÚA cho vua Rê-xin của A-ram, và vua Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, đến tấn công Giu-đa. | |
Chapter 16
II K | VietNVB | 16:1 | Năm thứ mười bảy triều vua Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, thì A-cha, con trai Giô-tham, lên ngôi làm vua. | |
II K | VietNVB | 16:2 | A-cha được hai mươi tuổi khi bắt đầu trị vì. Vua trị vì mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Vua làm điều không đúng trước mặt CHÚA, là Đức Chúa Trời của vua, không như tổ phụ vua là Đa-vít đã làm, | |
II K | VietNVB | 16:3 | nhưng vua đi theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên. Thậm chí vua còn thiêu dâng con trai mình qua lửa, theo tập tục gớm ghiếc của các dân mà Chúa đã đuổi ra trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. | |
II K | VietNVB | 16:4 | Vua dâng tế lễ và dâng hương trên các tế đàn của những nơi cao, trên núi, và dưới những cây xanh. | |
II K | VietNVB | 16:5 | Bấy giờ vua Rê-xin của A-ram, và vua Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, của Y-sơ-ra-ên, kéo đến gây chiến với Giê-ru-sa-lem. Họ bao vây A-cha, nhưng không thắng được vua. | |
II K | VietNVB | 16:6 | Lúc đó, vua của Ê-đôm lấy lại Ê-la cho Ê-đôm và đuổi người Giu-đa ở Ê-la đi, rồi đem người Ê-đôm đến chiếm ngụ, và họ cứ ở đó cho đến ngày nay. | |
II K | VietNVB | 16:7 | A-cha sai các sứ giả đến nói với Tiếc-lác Phi-lê-se, vua của A-si-ri rằng: Tôi là tôi tớ vua và là con trai vua. Xin hãy đến giải cứu tôi khỏi tay của vua A-ram và vua Y-sơ-ra-ên, vì họ đang vây hãm tôi. | |
II K | VietNVB | 16:8 | A-cha lấy những vật dụng bằng bạc bằng vàng trong đền thờ CHÚA và trong các kho tàng của hoàng cung mà làm quà biếu cho vua A-si-ri. | |
II K | VietNVB | 16:9 | Vua A-si-ri nghe theo lời yêu cầu của vua A-cha và dẫn quân tiến đánh Đa-mách, chiếm lấy thành, bắt dân chúng ở đó đem về Kia để lưu đày, và giết chết vua Rê-xin. | |
II K | VietNVB | 16:10 | Khi vua A-cha đến Đa-mách để hội kiến với vua Tiếc-lác Phi-lê-se của A-si-ri, thì vua có thấy một bàn thờ ở Đa-mách, vua A-cha bèn gởi về cho thầy tế lễ U-ri-a một mô hình của bàn thờ đó, với kiểu mẫu và kích thước giống hệt như bàn thờ vua đã thấy. | |
II K | VietNVB | 16:11 | Thầy tế lễ U-ri-a bèn làm một bàn thờ đúng y như kiểu mẫu mà vua A-cha ở Sa-ma-ri gởi về. Thầy tế lễ U-ri-a thực hiện xong việc đó trước khi vua A-cha ở Đa-mách trở về. | |
II K | VietNVB | 16:12 | Khi vua A-cha ở Đa-mách trở về, vua đến xem bàn thờ ấy. Vua đến gần bàn thờ mới, bước lên, | |
II K | VietNVB | 16:13 | dâng tế lễ thiêu, tế lễ chay, đổ lễ quán xuống, và rảy huyết các con sinh tế thuộc tế lễ cầu an nơi bàn thờ nầy. | |
II K | VietNVB | 16:14 | Vua cho di chuyển bàn thờ bằng đồng vốn ở trước đền thờ, tức là ở khoảng giữa bàn thờ vua mới làm và đền thờ CHÚA, mà đem đặt ở phía bắc của bàn thờ vua mới làm. | |
II K | VietNVB | 16:15 | Vua A-cha truyền cho thầy tế lễ U-ri-a rằng: Từ nay hãy dâng tế lễ thiêu buổi sáng và tế lễ chay buổi chiều, cùng với tế lễ thiêu của vua, tế lễ chay của vua, tế lễ thiêu của toàn dân trong nước, của lễ chay của họ, của lễ quán của họ, và hãy rảy huyết của các sinh tế dâng làm tế lễ thiêu trên bàn thờ lớn nầy; còn bàn thờ bằng đồng thì chỉ để dành cho ta cầu vấn mà thôi. | |
II K | VietNVB | 16:17 | Kế đó vua A-cha cho gỡ bỏ những chiếc xe bằng đồng và những bồn nước trên các xe đó xuống. Vua cũng lấy bể nước đặt trên lưng các con bò bằng đồng mà đem đặt trên một bệ bằng đá. | |
II K | VietNVB | 16:18 | Vua cũng dẹp bỏ lều che nắng dùng trong ngày Sa-bát nơi sân đền thờ, còn cổng vào dành đặt biệt cho vua ở phía trước đền thờ CHÚA, vua cũng dẹp bỏ. Vua làm tất cả những việc ấy để làm vừa lòng vua A-si-ri. | |
II K | VietNVB | 16:19 | Những việc khác vua A-cha đã làm há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? | |
Chapter 17
II K | VietNVB | 17:1 | Năm thứ mười hai triều vua A-cha của Giu-đa thì Ô-sê, con trai Ê-la, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri. Vua trị vì được chín năm. | |
II K | VietNVB | 17:2 | Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, nhưng không như các vua Y-sơ-ra-ên trước vua. | |
II K | VietNVB | 17:3 | Vua Sanh-ma-na-se của A-si-ri kéo đến đánh vua. Vua Ô-sê trở thành một chư hầu của vua ấy và phải nộp triều cống cho vua ấy. | |
II K | VietNVB | 17:4 | Nhưng vua của A-si-ri thấy vua Ô-sê có ý làm phản, vì vua Ô-sê có sai sứ giả đến cầu vua Sô của Ai-cập giúp đỡ. Vua Ô-sê cũng không nộp triều cống hằng năm cho vua A-si-ri như thường làm nữa. Vì thế vua của A-si-ri đến bắt vua Ô-sê và tống giam vào ngục. | |
II K | VietNVB | 17:5 | Bấy giờ vua A-si-ri xâm chiếm xứ và tiến đánh Sa-ma-ri. Vua ấy bao vây thành Sa-ma-ri ba năm. | |
II K | VietNVB | 17:6 | Năm thứ chín triều vua Ô-sê, vua A-si-ri chiếm được thành Sa-ma-ri. Vua ấy bắt dân Y-sơ-ra-ên đem về A-si-ri. Vua cho họ định cư tại Cha-la, bên bờ sông Cha-bo, thuộc xứ Gô-sen, và trong các thành của xứ Mê-đi. | |
II K | VietNVB | 17:7 | Việc nầy xảy ra vì dân Y-sơ-ra-ên đã phạm tội cùng CHÚA, là Đức Chúa Trời của họ, là Đấng đã đem họ ra khỏi xứ Ai-cập, tức ra khỏi tay của Pha-ra-ôn, vua Ai-cập. Họ đã thờ phượng những thần khác, | |
II K | VietNVB | 17:8 | và sống theo các tập tục của những dân mà CHÚA đã đuổi đi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, và vì họ theo các thói tục mà các vua Y-sơ-ra-ên đã bày ra. | |
II K | VietNVB | 17:9 | Dân Y-sơ-ra-ên đã lén lút làm những việc không đẹp lòng CHÚA, là Đức Chúa Trời của họ. Họ đã xây dựng cho họ những tế đàn trên các nơi cao trong các thành của họ, từ những thành rất nhỏ cho đến những thành lớn và kiên cố. | |
II K | VietNVB | 17:10 | Họ dựng cho mình những tượng thờ bằng đá và những trụ thờ nữ thần A-sê-ra trên các núi đồi và dưới những cây xanh. | |
II K | VietNVB | 17:11 | Họ dâng tế lễ trên các tế đàn ở các nơi cao, giống như các dân tộc mà CHÚA đã đuổi đi trước mặt họ. Họ làm những điều tội lỗi, chọc giận CHÚA. | |
II K | VietNVB | 17:13 | Dầu vậy CHÚA đã sai các đấng tiên tri và các nhà tiên kiến đến cảnh cáo Y-sơ-ra-ên và Giu-đa rằng: Hãy quay khỏi những đường lối tội lỗi của các ngươi, và hãy tuân giữ những điều răn và mạng lịnh Ta, tức là tất cả Kinh Luật Ta đã truyền cho tổ phụ các ngươi và mọi điều Ta đã sai các tôi tớ Ta là các tiên tri rao bảo cho các ngươi. | |
II K | VietNVB | 17:14 | Nhưng họ không chịu nghe và cứ ương ngạnh, giống như tổ phụ của họ đã làm, ấy là những người không tin vào CHÚA là Đức Chúa Trời của họ. | |
II K | VietNVB | 17:15 | Họ khinh bỉ các mạng lịnh Ngài, họ khinh bỉ các giao ước Ngài đã lập với tổ phụ họ, và họ cũng khinh bỉ những lời cảnh cáo mà Ngài đã sai các sứ giả Ngài đến truyền cho họ. Họ đi theo những hình tượng giả dối và trở thành những kẻ giả dối. Họ bắt chước các dân tộc sống chung quanh họ, đó là những dân tộc mà Chúa đã căn dặn họ không được làm như các dân tộc ấy. | |
II K | VietNVB | 17:16 | Họ loại bỏ CHÚA là Đức Chúa Trời của họ mà đúc cho mình tượng hai con bò con, rồi dựng những trụ thờ nữ thần A-sê-ra lên mà thờ lạy. Họ thờ phượng các thiên binh trên trời, và thờ lạy thần Ba-anh. | |
II K | VietNVB | 17:17 | Họ thiêu sống con trai và con gái họ trong lửa. Họ tin theo các phù thủy và xem bói. Họ bán chính mình để làm những tội lỗi gớm ghiếc trước mặt CHÚA, và chọc giận Ngài. | |
II K | VietNVB | 17:18 | Vì thế CHÚA rất giận dân Y-sơ-ra-ên và Ngài đã cất bỏ họ khỏi trước mặt Ngài, chỉ còn lại chi tộc Giu-đa mà thôi. | |
II K | VietNVB | 17:19 | Nhưng dân Giu-đa cũng không vâng giữ các điều răn của CHÚA là Đức Chúa Trời của họ, mà lại đi theo các thói tục của dân Y-sơ-ra-ên đã bày ra. | |
II K | VietNVB | 17:20 | Vì thế CHÚA đã từ bỏ toàn thể dòng dõi của Y-sơ-ra-ên. Ngài phạt họ và phó họ vào tay những kẻ cướp đoạt, cho đến khi Ngài loại hẳn họ ra khỏi trước mặt Ngài. | |
II K | VietNVB | 17:21 | Khi Ngài tách rời dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi nhà Đa-vít, họ lập Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, làm vua. Giê-rô-bô-am đã lôi kéo Y-sơ-ra-ên xa cách CHÚA và xui cho họ phạm tội trọng. | |
II K | VietNVB | 17:22 | Dân Y-sơ-ra-ên cứ tiếp tục đi theo những tội lỗi mà Giê-rô-bô-am đã phạm. Họ không chịu từ bỏ những tội lỗi ấy, | |
II K | VietNVB | 17:23 | cho đến khi CHÚA cất bỏ họ khỏi trước mặt Ngài, như Ngài đã bảo trước qua các tiên tri là các tôi tớ Ngài. Vì thế, Y-sơ-ra-ên bị lưu đày khỏi xứ sở mình mà đến A-si-ri cho đến ngày nay. | |
II K | VietNVB | 17:24 | Vua A-si-ri bắt dân từ Ba-by-lôn, Cư-tha, A-va, Ha-mát, và Sê-phạt-va-im đến định cư trong các thành của Sa-ma-ri thế chỗ dân Y-sơ-ra-ên. Các dân ấy đến chiếm lấy Sa-ma-ri và định cư trong các thành của xứ ấy. | |
II K | VietNVB | 17:25 | Khi mới đến định cư tại đó, họ không tôn thờ CHÚA, nên Chúa đã sai các sư tử đến vồ chết một số người của họ. | |
II K | VietNVB | 17:26 | Người ta bèn tâu với vua A-si-ri rằng: Các dân tộc mà vua đã trục xuất và đày đến định cư trong các thành ở Sa-ma-ri không biết luật lệ phải tôn thờ vị thần của xứ, nên vị thần ấy đã sai các sư tử đến vồ chết một số người. Đó là vì họ không biết tôn thờ vị thần của xứ ấy vậy. | |
II K | VietNVB | 17:27 | Vua A-si-ri bèn truyền lịnh: Các ngươi hãy chọn một người trong số những thầy tế lễ đã bị bắt qua đây. Hãy đưa người ấy trở về xứ và sống tại đó, để người ấy dạy cho chúng biết thờ phượng vị thần của xứ. | |
II K | VietNVB | 17:28 | Vậy một thầy tế lễ trong số những thầy tế lễ bị bắt đi lưu đày khỏi Sa-ma-ri được cho trở về và ngụ tại Bê-tên. Người ấy dạy cho họ biết phải thờ phượng CHÚA như thể nào. | |
II K | VietNVB | 17:29 | Nhưng mỗi dân tộc đều dựng thần riêng của họ, đem để vào trong những trang thờ, đặt trong những đền miễu trên các nơi cao mà người Sa-ma-ri đã xây. Dân tộc nào cũng lập thần riêng cho mình trong các thành họ ở. | |
II K | VietNVB | 17:30 | Dân Ba-by-lôn thì dựng tượng thần Su-cốt Bê-nốt, dân Cút thì lập tượng thần Nẹt-ganh, dân Ha-mát thì làm tượng thần A-si-ma, | |
II K | VietNVB | 17:31 | dân A-vim thì làm tượng thần Níp-ca và Tạt-tác, dân Sê-phạt-va-im thì thiêu con thơ mình trong lửa cho thần A-tra-mê-léc và thần A-na-mê-léc, tức là các thần của dân Sê-phạt-va-im. | |
II K | VietNVB | 17:32 | Các dân tộc ấy cũng thờ phượng CHÚA và tự chọn trong vòng họ đủ hạng người mà lập làm những thầy cúng cho các đền miếu trên những nơi cao; những thầy cúng ấy vì họ mà dâng các sinh tế trên các tế đàn ở những nơi cao. | |
II K | VietNVB | 17:33 | Như vậy các dân tộc ấy thờ phượng CHÚA nhưng cũng thờ phượng các thần của họ, cứ giữ theo phong tục của dân tộc họ đã có, trước khi họ bị đem đi lưu đày. | |
II K | VietNVB | 17:34 | Cho đến ngày nay họ vẫn tiếp tục theo các phong tục ngày trước của họ. Dân Y-sơ-ra-ên không thờ phượng CHÚA, và cũng không tuân giữ các quy tắc, mạng lịnh, luật lệ hay điều răn mà Chúa đã truyền cho các con cháu Gia-cốp, là người Ngài đặt tên là Y-sơ-ra-ên. | |
II K | VietNVB | 17:35 | CHÚA đã lập giao ước với họ và truyền cho họ rằng: Các ngươi chớ thờ phượng các thần khác, chớ quỳ lạy chúng, chớ phục vụ chúng, và cũng chớ dâng của tế lễ cho chúng. | |
II K | VietNVB | 17:36 | Nhưng các ngươi chỉ hãy thờ phượng CHÚA, là Đấng đã dùng cánh tay quyền năng Ngài giang ra mà đem các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập. Các ngươi chỉ quỳ lạy một mình Ngài và chỉ dâng của tế lễ cho Ngài. | |
II K | VietNVB | 17:37 | Những quy luật, mạng lịnh, luật lệ và điều răn mà Ngài đã viết ra cho các ngươi, thì các ngươi phải cẩn thận tuân giữ. Các ngươi không được thờ phượng các thần khác. | |
II K | VietNVB | 17:38 | Các ngươi không được quên giao ước mà Ta đã lập với các ngươi. Các ngươi không được thờ phượng các thần khác, | |
II K | VietNVB | 17:39 | nhưng các ngươi chỉ hãy thờ phượng CHÚA là Đức Chúa Trời của các ngươi. Ngài sẽ giải cứu các ngươi khỏi tay mọi kẻ thù của các ngươi. | |
II K | VietNVB | 17:40 | Những dân tộc mới đến cũng không nghe, họ cứ tiếp tục thờ lạy theo phong tục trước kia của họ. | |
Chapter 18
II K | VietNVB | 18:1 | Năm thứ ba triều vua Ô-sê, con trai Ê-la, của Y-sơ-ra-ên, thì Ê-xê-chia, con trai vua A-cha của Giu-đa lên ngôi làm vua. | |
II K | VietNVB | 18:2 | Vua được hai mươi lăm tuổi khi bắt đầu trị vì. Vua trị vì hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu của vua là bà A-bi, con gái của Xa-cha-ri. | |
II K | VietNVB | 18:4 | Vua dẹp bỏ những nơi cao, đập vỡ các tượng thờ bằng đá, và đốn hạ những trụ thờ nữ thần A-sê-ra. Vua đập nát con rắn bằng đồng mà Môi-se đã làm. Vì cho đến lúc đó dân Y-sơ-ra-ên vẫn còn dâng hương cho con rắn bằng đồng ấy. Người ta gọi nó là Nê-hu-tan. | |
II K | VietNVB | 18:5 | Vua tin cậy CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Trong số những vị vua của Giu-đa sau vua thì không ai được như thế, còn trong số các vị vua trước vua thì cũng chẳng ai được như vậy. | |
II K | VietNVB | 18:6 | Vì vua bám chặt lấy CHÚA. Vua chẳng rời bỏ Ngài, nhưng gìn giữ những điều răn mà CHÚA đã truyền cho Môi-se. | |
II K | VietNVB | 18:7 | Chúa ở cùng vua; vua làm điều gì cũng được thành công. Vua nổi dậy chống lại vua A-si-ri và không chịu thần phục vua ấy nữa. | |
II K | VietNVB | 18:8 | Vua tiến đánh dân Phi-li-tin đến tận Ga-xa và những vùng phụ cận, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố. | |
II K | VietNVB | 18:9 | Năm thứ tư triều vua Ê-xê-chia, tức là năm thứ bảy triều vua Ô-sê, con trai Ê-la, của Y-sơ-ra-ên, vua Sanh-ma-na-se của A-si-ri đến tấn công Sa-ma-ri và bao vây thành ấy. | |
II K | VietNVB | 18:10 | Cuối ba năm, vua ấy chiếm được thành. Năm thứ sáu triều vua Ê-xê-chia, tức là năm thứ chín triều vua Ô-sê của Y-sơ-ra-ên, Sa-ma-ri bị thất thủ. | |
II K | VietNVB | 18:11 | Vua A-si-ri bắt dân Y-sơ-ra-ên đem lưu đày ở A-si-ri, cho họ định cư ở Ha-la bên bờ sông Cha-bo, thuộc xứ Gô-sen, và trong các thành của xứ Mê-đi. | |
II K | VietNVB | 18:12 | Bởi vì họ không vâng theo tiếng CHÚA là Đức Chúa Trời của họ, nhưng vi phạm giao ước Ngài, tức là tất cả những điều Môi-se, tôi tớ của Chúa, đã truyền ban. Họ không nghe và cũng chẳng thi hành. | |
II K | VietNVB | 18:13 | Năm thứ mười bốn triều vua Ê-xê-chia, vua San-chê-ríp của A-si-ri, đến tấn công các thành kiên cố của Giu-đa và chiếm lấy. | |
II K | VietNVB | 18:14 | Vua Ê-xê-chia của Giu-đa sai sứ đến gặp vua của A-si-ri tại La-chi và tâu rằng: Tôi có lỗi. Xin vua hãy lui binh. Vua muốn điều chi, tôi cũng chịu cả. Vua của A-si-ri đòi vua Ê-xê-chia của Giu-đa phải nộp chín ngàn ký bạc và chín trăm ký vàng. | |
II K | VietNVB | 18:15 | Vua Ê-xê-chia lấy tất cả bạc trong đền thờ CHÚA và trong các kho tàng của hoàng cung mà nộp cho vua ấy. | |
II K | VietNVB | 18:16 | Bấy giờ vua Ê-xê-chia phải gỡ vàng bọc trên những cánh cửa của đền thờ CHÚA, và vàng mà vua đã cẩn trên những khung cửa ấy, để đem nộp cho vua A-si-ri. | |
II K | VietNVB | 18:17 | Nhưng vua A-si-ri lại sai Tạt-tan, Ráp-sa-ri, và Ráp-sa-kê, cùng một đạo binh rất lớn từ La-chi đến với Ê-xê-chia tại Giê-ru-sa-lem. Họ tiến lên và đến Giê-ru-sa-lem. Khi tiến gần, họ đến và dừng lại tại đầu kênh dẫn nước của hồ trên, tức là chỗ con đường dẫn đến cánh đồng của thợ nện. | |
II K | VietNVB | 18:18 | Rồi họ yêu cầu được hội kiến với vua. Ê-li-a-kim con trai Hinh-kia, quan tổng quản hoàng cung, Sép-na, quan bí thư, và Giô-a con trai A-sáp, quan quản lý văn khố, ra gặp họ. | |
II K | VietNVB | 18:19 | Ráp-sa-kê nói với họ: Hãy về bảo Ê-xê-chia: Đại đế ta là vua của A-si-ri có phán như vầy: Ngươi dựa vào gì mà tự tin như vậy? | |
II K | VietNVB | 18:20 | Bộ ngươi tưởng rằng trong chiến tranh mà lời nói suông có thể thay thế được mưu lược và sức mạnh sao? Ngươi dựa vào gì mà ngươi dám chống lại ta? | |
II K | VietNVB | 18:21 | Kìa, ngày nay ngươi dựa vào Ai-cập chăng. Đó là một cây sậy gãy. Ai dựa vào nó ắt sẽ bị nó đâm thủng bàn tay. Bất cứ kẻ nào dựa vào Pha-ra-ôn, vua của Ai-cập, sẽ bị như vậy. | |
II K | VietNVB | 18:22 | Nhưng nếu ngươi bảo ta rằng: Chúng tôi tin cậy vào CHÚA là Đức Chúa Trời của chúng tôi, thì há chẳng phải Ê-xê-chia đã dẹp bỏ các tế đàn của Ngài trên các nơi cao, rồi bảo dân Giu-đa và dân Giê-ru-sa-lem rằng: Các ngươi chỉ thờ phượng Ngài ở bàn thờ tại Giê-ru-sa-lem mà thôi sao? | |
II K | VietNVB | 18:23 | Bây giờ hãy đánh cuộc với chủ ta là vua A-si-ri đi. Ta sẽ cho các ngươi hai ngàn con ngựa, nếu các ngươi có đủ kỵ binh để cỡi. | |
II K | VietNVB | 18:24 | Liệu các ngươi nhờ cậy vào các xe chiến mã và các kỵ binh của Ai-cập mà có thể chống cự nổi một tiểu tướng trong đám đầy tớ của chủ ta chăng? | |
II K | VietNVB | 18:25 | Hơn nữa, há không phải là ý Chúa mà ta đến đây để hủy diệt xứ nầy sao? Chúa bảo ta rằng: Hãy lên đánh xứ nầy và tiêu diệt nó đi. | |
II K | VietNVB | 18:26 | Bấy giờ Ê-li-a-kim con trai Hinh-kia, với Sép-na và Giô-a nói với Ráp-sa-kê rằng: Xin hãy nói với các tôi tớ ông bằng tiếng A-ram, vì chúng tôi hiểu tiếng ấy. Xin đừng nói với chúng tôi bằng tiếng Giu-đa, kẻo dân trên tường thành nghe được. | |
II K | VietNVB | 18:27 | Nhưng Ráp-sa-kê đáp lại họ: Há chủ ta chỉ sai ta đến nói những lời nầy với chủ các ngươi và với các ngươi, mà không nói với những người đang ngồi trên tường thành kia, tức những người đang ăn phân và uống nước tiểu của mình, nữa sao? | |
II K | VietNVB | 18:28 | Đoạn Ráp-sa-kê đứng dậy và nói lớn bằng tiếng Giu-đa rằng: Hãy nghe lời của đại đế ta là vua A-si-ri. | |
II K | VietNVB | 18:29 | Vua phán như vầy: Chớ để Ê-xê-chia lừa gạt các ngươi, vì ông ấy không thể giải thoát các ngươi khỏi tay ta được đâu. | |
II K | VietNVB | 18:30 | Chớ để Ê-xê-chia xúi giục các ngươi nương cậy nơi CHÚA, mà rằng: Chúa sẽ chắc chắn giải cứu chúng ta, và thành nầy sẽ không bị phó vào tay vua A-si-ri đâu. | |
II K | VietNVB | 18:31 | Chớ nghe theo lời của Ê-xê-chia, vì vua của A-si-ri có phán như vầy: Hãy làm hòa với ta và ra đây với ta, thì mỗi người trong các ngươi sẽ được ăn hoa quả của vườn nho và vườn vả mình, sẽ được uống nước của giếng mình, | |
II K | VietNVB | 18:32 | cho đến khi ta đến đem các ngươi qua một xứ giống như xứ của các ngươi, một xứ có lúa và rượu, một xứ có bánh và vườn nho, một xứ có dầu ô-liu và mật, để các ngươi sẽ sống và không chết. Chớ để Ê-xê-chia dẫn dụ các ngươi đi sai lạc khi ông ấy nói rằng: CHÚA sẽ giải cứu chúng ta. | |
II K | VietNVB | 18:34 | Các thần của dân Ha-mát và dân Ạt-bát ở đâu? Các thần của dân Sê-phạt-va-im, dân Hê-na, và dân Y-va ở đâu? Các thần ấy có giải cứu Sa-ma-ri thoát khỏi tay ta chăng? | |
II K | VietNVB | 18:35 | Trong tất cả các thần của các nước, có thần nào đã giải cứu nước họ thoát khỏi tay của ta chăng? Thế thì CHÚA há có thể giải cứu Giê-ru-sa-lem thoát khỏi tay của ta sao? | |
II K | VietNVB | 18:36 | Nhưng dân chúng đều im lặng, chẳng ai đáp lại một lời, vì vua có truyền rằng: Đừng trả lời hắn. | |
Chapter 19
II K | VietNVB | 19:1 | Khi vua Ê-xê-chia nghe những lời đó, vua xé áo mình, mặc vải gai, rồi đi vào đền thờ CHÚA. | |
II K | VietNVB | 19:2 | Vua sai Ê-li-a-kim, quan tổng quản hoàng cung, Sép-na, quan bí thư, và những thầy tế lễ trưởng thượng, mặc vải gai mà đến gặp tiên tri I-sa, con trai A-mốt. | |
II K | VietNVB | 19:3 | Họ nói với ông: Vua Ê-xê-chia có nói như vầy: Ngày nay là ngày khốn quẫn, ngày bị trách phạt, và ngày tủi nhục. Các thai nhi đã đến ngày chào đời mà không có sức để sanh ra. | |
II K | VietNVB | 19:4 | Có lẽ CHÚA là Đức Chúa Trời của ông đã nghe thấu tất cả những lời của Ráp-sa-kê, là kẻ được vua A-si-ri, chủ hắn, sai đến để phỉ báng Đức Chúa Trời hằng sống; ước gì CHÚA là Đức Chúa Trời của ông sẽ quở phạt những kẻ nói những lời Ngài đã nghe. Vậy xin ông hãy dâng lời cầu nguyện cho những người còn sót lại. | |
II K | VietNVB | 19:6 | Tiên tri I-sa nói với họ: Hãy về nói với chủ các ngươi: CHÚA phán như vầy: Đừng sợ vì những lời các ngươi đã nghe, tức những lời các tôi tớ của vua A-si-ri đã xúc phạm đến Ta. | |
II K | VietNVB | 19:7 | Chính Ta sẽ đặt một thần linh trong nó, để nó sẽ nghe tiếng đồn mà rút về xứ mình. Ta sẽ làm cho nó bị giết chết bằng gươm trong xứ của nó. | |
II K | VietNVB | 19:8 | Ráp-sa-kê rút về và thấy vua của A-si-ri đang tấn công Líp-na, vì ông có nhận được tin rằng vua của ông đã rời khỏi La-chi. | |
II K | VietNVB | 19:9 | Khi vua của A-si-ri nghe được tin báo về vua Tiệt-ha-ca của Ê-thi-ô-bi: Kìa, vua ấy đang kéo quân ra chống lại vua, thì vua sai các sứ giả đến nói với Ê-xê-chia rằng: | |
II K | VietNVB | 19:10 | Hãy nói với Ê-xê-chia, vua của Giu-đa như vầy: Chớ để Đức Chúa Trời của ngươi là Đấng ngươi nhờ cậy lừa gạt ngươi khi nói rằng Giê-ru-sa-lem sẽ không rơi vào tay vua A-si-ri đâu. | |
II K | VietNVB | 19:11 | Kìa, hãy xem những gì vua A-si-ri đã làm cho mọi nước: tiêu diệt tất cả. Còn ngươi, ngươi sẽ thoát được sao? | |
II K | VietNVB | 19:12 | Những thần của các dân mà tổ tiên ta đã tiêu diệt như dân Gô-dan, Ga-ran, Rê-xép, và dân Ê-đen ở Tê-la-sa có giải cứu được họ chăng? | |
II K | VietNVB | 19:13 | Vua của Ha-mát, vua của Ạt-bát, vua của thành Sê-phạt-va-im, vua của Hê-na, và vua của I-va bây giờ ở đâu? | |
II K | VietNVB | 19:14 | Khi Ê-xê-chia nhận được thư từ tay các sứ giả thì đọc, rồi vua đi lên đền thờ CHÚA và mở bức thư ấy ra trước mặt Chúa. | |
II K | VietNVB | 19:15 | Ê-xê-chia cầu nguyện với CHÚA rằng: Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra- ên, Đấng đang ngự trên các chê-ru-bim. Chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời của tất cả các nước trên thế gian. Chính Ngài đã dựng nên trời và đất. | |
II K | VietNVB | 19:16 | Xin nghiêng tai và nghe, Chúa ôi. Xin mở mắt và nhìn, Chúa ôi. Xin nghe những lời của San-chê-ríp đã gởi đến để nhục mạ Đức Chúa Trời hằng sống. | |
II K | VietNVB | 19:17 | Lạy CHÚA, thật sự là San-chê-ríp, vua của A-si-ri có hủy diệt các nước và xứ sở của họ, | |
II K | VietNVB | 19:18 | có ném các thần tượng của họ vô lửa, vì chúng chẳng phải là thần, mà chỉ là sản phẩm của bàn tay loài người, chỉ là gỗ và đá, cho nên chúng đã bị hủy diệt. | |
II K | VietNVB | 19:19 | Nhưng bây giờ, lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của chúng con, con cầu xin Ngài, xin cứu chúng con khỏi tay của vua ấy, để mọi nước trên đất sẽ biết rằng chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời mà thôi, Chúa ôi. | |
II K | VietNVB | 19:20 | Bấy giờ I-sa, con trai A-mốt, gởi lời đến nói với vua Ê-xê-chia rằng: CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta có nghe lời cầu nguyện của ngươi về việc vua San-chê-ríp của A-si-ri. | |
II K | VietNVB | 19:21 | Đây là lời của CHÚA đã phán về hắn:Trinh nữ ở Si-ôn khinh dể ngươi, nhạo báng ngươi;Sau lưng ngươi, con gái ở Giê-ru-sa-lem lắc đầu. | |
II K | VietNVB | 19:22 | Ngươi đã nhục mạ và khinh bỉ ai?Ngươi đã lên giọngVà giương mắt kiêu căng với ai?Ngươi nghịch cùng Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên ấy à! | |
II K | VietNVB | 19:23 | Ngươi đã dùng các sứ giả mà phỉ báng CHÚA,Ngươi nói rằng: Với nhiều xe chiến mã,Ta đã lên những đỉnh cao các núi,Ta đã lên tận những nơi chót vót của núi Li-ban;Ta đã đốn hạ những cây bá hương cao nhất, và những cây tùng tốt nhất;Ta đã vào tới giữa rừng sâu, vào tận chốn rừng rậm thâm u. | |
II K | VietNVB | 19:24 | Ta đã đào giếng, và uống nước nơi xứ lạ.Ta đã làm khô cạn các sông suối ở Ai-cập bằng gót bàn chân ta. | |
II K | VietNVB | 19:25 | Ngươi há không nghe rằng Ta đã định từ lâu rồi sao?Những gì Ta đã định từ thời thái cổ, giờ đây Ta cho thực hiện,Đó là ngươi phải biến những thành trì kiên cốThành những đống vụn hoang tàn. | |
II K | VietNVB | 19:26 | Dân cư ở những nơi đó đều yếu nhược,Khiếp sợ và bối rối;Họ trở nên như cây cỏ ngoài đồng,Như cỏ non mới mọc,Như cỏ mọc trên mái nhà,Héo khô trước khi chưa kịp lớn. | |
II K | VietNVB | 19:27 | Nhưng Ta biết ngươi,Ta biết lúc ngươi đứng dậy và khi ngươi ngồi xuống,Ta biết lúc ngươi đi ra và khi ngươi đi vào,Ta cũng biết ngươi lúc ngươi nổi giận nghịch lại Ta. | |
II K | VietNVB | 19:28 | Vì ngươi đã nổi giận nghịch lại Ta,Những lời ngạo mạn của ngươi đã thấu đến tai Ta,Nên Ta sẽ xỏ vòng vào lỗ mũi ngươi,Tra hàm thiếc vào miệng ngươi;Ta sẽ bắt ngươi phải trở vềTrên con đường mà ngươi đã ra đi. | |
II K | VietNVB | 19:29 | Hỡi Ê-xê-chia, đây sẽ là một dấu hiệu cho ngươi:Năm nay ngươi sẽ ăn hoa màu tự mọc,Năm thứ hai ngươi sẽ ăn những gì mọc lên từ các hoa màu ấy,Năm thứ ba ngươi sẽ gieo, gặt,Trồng vườn nho và ăn trái. | |
II K | VietNVB | 19:31 | Vì từ Giê-ru-sa-lem những người sống sót sẽ tràn ra,Từ núi Si-ôn sẽ tuôn ra một dòng người thoát nạn.Lòng nhiệt thành của Chúa Vạn Quân sẽ làm như vậy. | |
II K | VietNVB | 19:32 | Vậy nên, Chúa phán về vua của A-si-ri như vầy:Nó sẽ không vào được thành nầy,Nó sẽ không bắn một mũi tên vào thành,Nó sẽ không núp sau thuẫn khiên mà xông tới,Nó sẽ không đắp lũy tấn công thành. | |
II K | VietNVB | 19:33 | Nó đã dùng đường nào để đi tới, thì cũng sẽ dùng đường đó mà trở về;Nó sẽ không vào được thành nầy, CHÚA phán vậy. | |
II K | VietNVB | 19:35 | Ngay trong đêm đó, một thiên sứ của CHÚA đi ra và giết chết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân A-si-ri. Đến sáng, người ta thức dậy thì chỉ thấy toàn là xác chết. | |
Chapter 20
II K | VietNVB | 20:1 | Trong những ngày ấy, Ê-xê-chia bị bịnh và gần chết. Tiên tri I-sa, con trai A-mốt, đến thăm vua và nói: CHÚA phán rằng: Hãy sắp đặt việc nhà của ngươi, vì ngươi sẽ qua đời. Ngươi sẽ không qua khỏi cơn bịnh nầy đâu. | |
II K | VietNVB | 20:3 | Lạy CHÚA, con cầu khẩn Ngài, xin nhớ đến con, thể nào con đã bước đi cách trung tín và hết lòng trước mặt Ngài, và con đã làm những gì đẹp lòng Ngài. Rồi Ê-xê-chia khóc lóc thảm thiết. | |
II K | VietNVB | 20:5 | Hãy trở lại và nói với Ê-xê-chia, thủ lãnh của dân Ta rằng: CHÚA là Đức Chúa Trời của Đa-vít, tổ phụ ngươi, phán rằng: Ta có nghe lời cầu nguyện ngươi. Ta có thấy nước mắt ngươi. Quả thật, Ta sẽ chữa lành ngươi. Ngày thứ ba ngươi sẽ đi lên đền thờ CHÚA được. | |
II K | VietNVB | 20:6 | Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm năm nữa. Ta sẽ giải cứu ngươi và thành nầy khỏi tay vua A-si-ri. Ta sẽ bảo vệ thành nầy vì cớ Ta và vì Đa-vít, tôi tớ Ta. | |
II K | VietNVB | 20:7 | Rồi tiên tri I-sa bảo: Hãy đem cho tôi một cái bánh làm bằng trái vả. Hãy đắp nó lên chỗ ung độc, thì vua sẽ được lành. | |
II K | VietNVB | 20:8 | Ê-xê-chia nói với tiên tri I-sa: Nhờ dấu hiệu nào mà ta biết rằng CHÚA sẽ chữa lành ta và ngày thứ ba ta có thể đi lên đền thờ CHÚA được? | |
II K | VietNVB | 20:9 | Tiên tri I-sa đáp: Đây là dấu hiệu của CHÚA ban cho vua, rằng Chúa sẽ làm điều Ngài đã hứa. Vua muốn thấy bóng mặt trời ngã tới thêm mười độ hay ngã lui đi mười độ? | |
II K | VietNVB | 20:10 | Ê-xê-chia đáp: Bóng ngã tới thêm mười độ là chuyện thường; vậy xin hãy cho bóng ngã lui đi mười độ. | |
II K | VietNVB | 20:11 | Tiên tri I-sa kêu cầu với CHÚA, và Ngài khiến bóng mặt trời chiếu trên các bậc thang vua A-cha đã xây ngã lui đi mười độ. | |
II K | VietNVB | 20:12 | Khi ấy, vua Mê-rô-đác Ba-la-đan, con trai của Ba-la-đan, ở Ba-by-lôn có sai các sứ giả đem thư và quà đến biếu Ê-xê-chia, vì vua có nghe Ê-xê-chia bị bịnh. | |
II K | VietNVB | 20:13 | Sau khi Ê-xê-chia nghe các sứ giả tâu xong thì dẫn họ đi xem tất cả các kho tàng của mình, nào bạc, nào vàng, nào các hương liệu, dầu quý, kho vũ khí, và tất cả những gì chất chứa trong các kho tàng của vua. Chẳng có vật gì trong cung điện hoặc trong vương quốc mình mà vua Ê-xê-chia không cho họ xem. | |
II K | VietNVB | 20:14 | Bấy giờ tiên tri I-sa đến gặp vua Ê-xê-chia và hỏi: Những người ấy nói gì? Và họ từ đâu đến vậy?Ê-xê-chia đáp: Họ đến từ một nước rất xa, ở tận xứ Ba-by-lôn. | |
II K | VietNVB | 20:15 | Tiên tri nói: Họ đã xem thấy những gì trong cung điện của vua?Ê-xê-chia đáp: Họ đã xem thấy tất cả những gì trong cung điện ta. Chẳng có vật gì trong các kho tàng của ta mà ta không chỉ cho họ. | |
II K | VietNVB | 20:17 | Trong những ngày đến, khi tất cả những gì có trong cung điện của vua, và tất cả những gì tổ tiên của vua đã tích trữ cho đến ngày nay, sẽ bị mang qua Ba-by-lôn; chẳng còn vật chi chừa lại. CHÚA phán vậy. | |
II K | VietNVB | 20:18 | Một số con cái của vua, do chính vua sinh ra, cũng sẽ bị bắt đi. Chúng sẽ trở thành những hoạn quan trong cung điện của vua Ba-by-lôn. | |
II K | VietNVB | 20:19 | Ê-xê-chia bèn nói với tiên tri I-sa: Lời của CHÚA do ông truyền quả là tốt vậy. Vì vua nghĩ: Không sao, miễn là trong đời ta có hòa bình và an ninh là được rồi. | |
II K | VietNVB | 20:20 | Những việc khác của vua Ê-xê-chia, tất cả quyền thế của vua, thể nào vua xây hồ nước, làm ống dẫn nước, và dẫn nước vào kinh thành, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? | |
Chapter 21
II K | VietNVB | 21:1 | Ma-na-se được mười hai tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Hép-si-ba. | |
II K | VietNVB | 21:2 | Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, theo những cách gớm ghiếc của các dân mà Chúa đã đuổi đi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. | |
II K | VietNVB | 21:3 | Vì vua cho xây lại các tế đàn trên những nơi cao mà Ê-xê-chia đã phá hủy. Vua cho dựng tượng thần Ba-anh, làm một trụ thờ nữ thần A-sê-ra, giống như vua A-háp của Y-sơ-ra-ên đã làm. Vua thờ lạy tất cả các thần linh trên không trung và phụng thờ chúng. | |
II K | VietNVB | 21:4 | Vua xây thêm nhiều bàn thờ trong đền thờ CHÚA, là nơi Chúa đã phán rằng: Tại Giê-ru-sa-lem, Ta sẽ đặt danh Ta ở đó. | |
II K | VietNVB | 21:5 | Vua xây cất bàn thờ cho các thần linh trên không trung trong hai sân của đền thờ CHÚA. | |
II K | VietNVB | 21:6 | Vua thiêu dâng con trai mình trong lửa. Vua thực hành phép phù thủy và bói khoa. Vua cậy vào đồng bóng và thầy bói. Vua làm nhiều điều tội lỗi trước mặt CHÚA, chọc giận Ngài. | |
II K | VietNVB | 21:7 | Vua tạc tượng nữ thần A-sê-ra rồi đem để trong đền thờ, là nơi CHÚA đã bảo Đa-vít và con trai người là Sa-lô-môn rằng: Trong đền thờ nầy và trong Giê-ru-sa-lem là nơi Ta đã chọn trong các chi tộc Y-sơ-ra-ên để đặt danh Ta ngự đời đời. | |
II K | VietNVB | 21:8 | Nếu họ cẩn thận làm theo tất cả những gì Ta đã truyền cho họ, và vâng theo tất cả Kinh Luật mà Môi-se, tôi tớ Ta, đã truyền cho họ, thì Ta sẽ không để cho chân của dân Y-sơ-ra-ên phải lang thang ra khỏi xứ mà Ta đã ban cho tổ phụ họ nữa đâu. | |
II K | VietNVB | 21:9 | Nhưng họ không chịu nghe. Ma-na-se đã dẫn dắt họ đi sai lạc, khiến họ phạm nhiều tội lỗi hơn tất cả các nước mà CHÚA đã hủy diệt trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. | |
II K | VietNVB | 21:11 | Bởi vì vua Ma-na-se đã làm những việc gớm ghiếc nầy, vua đã làm những việc gian tà hơn tất cả người A-mô-rít đã làm trước vua, vua đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội thờ các hình tượng của vua làm ra. | |
II K | VietNVB | 21:12 | Vậy nên, CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta sẽ giáng những tai vạ xuống trên Giê-ru-sa-lem và Giu-đa đến nỗi ai nghe đến sẽ lùng bùng lỗ tai. | |
II K | VietNVB | 21:13 | Ta sẽ giăng trên Giê-ru-sa-lem thước dây đã đo Sa-ma-ri, và sẽ dùng dây dọi đã áp dụng cho nhà A-háp. Ta sẽ chùi sạch Giê-ru-sa-lem như người ta chùi một cái dĩa, chùi sạch nó rồi úp nó xuống. | |
II K | VietNVB | 21:14 | Ta sẽ vứt bỏ những gì còn sót lại của di sản Ta, mà phó chúng vào tay những kẻ thù của chúng. Chúng sẽ trở thành một miếng mồi, một chiến lợi phẩm cho những kẻ thù của chúng. | |
II K | VietNVB | 21:15 | Bởi vì chúng đã làm những việc tội lỗi trước mặt Ta, chọc cho Ta giận, kể từ khi tổ tiên chúng ra khỏi Ai-cập và mãi cho đến ngày nay. | |
II K | VietNVB | 21:16 | Ngoài ra, Ma-na-se còn làm đổ máu nhiều người vô tội, cho đến khi vua làm ngập Giê-ru-sa-lem với máu vô tội từ đầu nầy đến đầu kia, ngoài những tội vua đã làm để gây cho Giu-đa phạm tội, khiến cho họ làm những điều tội lỗi trước mặt CHÚA. | |
II K | VietNVB | 21:17 | Những việc khác của Ma-na-se, tất cả những việc vua làm, những tội lỗi vua phạm, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? | |
II K | VietNVB | 21:18 | Ma-na-se an giấc cùng các tổ phụ mình và được chôn trong vườn ngự uyển ở hoàng cung, tức trong vườn U-xa. A-môn, con trai vua, lên ngôi kế vị. | |
II K | VietNVB | 21:19 | A-môn được hai mươi hai tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì được hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Mê-su-lê-mết, con gái của Ha-rút, cháu của Giô-ba. | |
II K | VietNVB | 21:21 | Vua đi theo mọi đường lối mà cha vua đã đi, phục vụ các thần tượng mà cha vua đã phục vụ và vua thờ phượng chúng. | |
II K | VietNVB | 21:22 | Vua lìa bỏ CHÚA là Đức Chúa Trời của tổ tiên vua, và không đi theo các đường lối Chúa. | |
II K | VietNVB | 21:23 | Các tôi tớ của A-môn lập mưu phản nghịch vua, và hạ sát vua ngay trong cung điện. | |
II K | VietNVB | 21:24 | Nhưng dân trong xứ xử tử tất cả những người đã lập mưu và giết vua A-môn. Rồi dân trong xứ lập Giô-si-a, con trai vua, lên ngôi kế vị. | |
II K | VietNVB | 21:25 | Tất cả những việc khác của vua A-môn làm, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? | |
Chapter 22
II K | VietNVB | 22:1 | Giô-si-a được tám tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Giê-đi-đa, con gái của A-đa-gia, cháu của Bô-cát. | |
II K | VietNVB | 22:2 | Vua làm điều ngay lành trước mặt CHÚA và bước đi trong mọi đường lối của tổ phụ vua là Đa-vít. Vua chẳng xây qua bên phải hay bên trái. | |
II K | VietNVB | 22:3 | Vào năm thứ mười tám triều vua Giô-si-a, vua sai Sa-phan, con trai A-xa-lia, cháu của Mê-su-lam, là quan bí thư của vua đến đền thờ của CHÚA và dặn rằng: | |
II K | VietNVB | 22:4 | Hãy đi gặp thầy Thượng Tế Hinh-kia và nói với ông ta: Hãy đếm tất cả số tiền mà những người giữ cửa đã thâu nhận của dân khi họ vào đền thờ CHÚA. | |
II K | VietNVB | 22:5 | Hãy trao số tiền đó cho những người có trách nhiệm bảo trì đền thờ CHÚA, để họ sửa sang đền thờ. | |
II K | VietNVB | 22:6 | Đó là những thợ mộc, thợ xây cất và thợ nề, để họ mua gỗ, mua đá đã đẽo sẵn mà tu bổ đền thờ lại. | |
II K | VietNVB | 22:7 | Nhưng không nên bắt họ phải khai báo về số tiền đã giao vào tay họ, vì họ làm việc rất chân thật. | |
II K | VietNVB | 22:8 | Thầy Thượng Tế Hinh-kia nói với Sa-phan, quan bí thư, rằng: Tôi có tìm được cuốn sách Kinh Luật trong đền thờ CHÚA. Đoạn, Hinh-kia trao cuốn sách đó cho Sa-phan. Ông ta lấy đọc. | |
II K | VietNVB | 22:9 | Sau đó, Sa-phan, quan bí thư, đến gặp vua và tâu: Bầy tôi của vua có đến lấy tất cả số tiền có trong đền thờ và giao cho những người có trách nhiệm sửa sang đền thờ CHÚA rồi. | |
II K | VietNVB | 22:10 | Sa-phan, quan bí thư, tâu tiếp: Thầy Thượng Tế Hinh-kia có trao cho tôi một cuốn sách. Rồi Sa-phan đọc lớn tiếng cho vua nghe. | |
II K | VietNVB | 22:12 | Rồi vua truyền cho thầy Thượng Tế Hinh-kia, cho A-hi-cam con trai Sa-phan, cho Ạc-bồ con trai Mi-ca-gia, cho Sa-phan quan bí thư, và cho A-sa-gia đầy tớ của vua, mà rằng: | |
II K | VietNVB | 22:13 | Hãy đi, cầu vấn CHÚA cho ta, cho dân chúng, cho cả Giu-đa, theo những lời trong sách mới tìm được. Vì cơn thịnh nộ của CHÚA đang nhen lên nghịch lại chúng ta thật lớn thay. Bởi vì tổ tiên chúng ta đã không vâng theo những lời trong sách nầy, mà làm theo những điều đã viết cho chúng ta. | |
II K | VietNVB | 22:14 | Vậy thầy Thượng Tế Hinh-kia, A-hi-cam, Ạc-bồ, Sa-phan, và A-sa-gia đi gặp nữ tiên tri Hân-đa, vợ của Sa-lum, con trai Ti-va, cháu của Hạt-ha, Sa-lum là người giữ áo lễ. Nữ tiên tri Hân-đa ngụ ở Giê-ru-sa-lem, trong Quận Nhì. Họ đến tham khảo ý kiến của bà. | |
II K | VietNVB | 22:15 | Bà nói với họ: CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán rằng: Hãy về nói với người đã sai các ông đến gặp tôi như vầy: | |
II K | VietNVB | 22:16 | Chúa phán: Ta chắc chắn sẽ giáng tai họa trên nơi nầy và trên dân cư của nó y theo những lời trong sách mà vua Giu-đa đã đọc. | |
II K | VietNVB | 22:17 | Bởi vì họ đã lìa bỏ Ta mà dâng tế lễ cho các thần khác. Họ đã chọc giận Ta bằng công việc của bàn tay họ. Vậy nên cơn thịnh nộ của Ta đã nhen lên nghịch lại chốn nầy, và nó sẽ không bị dập tắt được. | |
II K | VietNVB | 22:18 | Còn về vua của Giu-đa, là người đã sai các ông đi cầu vấn CHÚA, hãy nói với người ấy rằng: CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán rằng: Về những lời mà ngươi đã nghe, | |
II K | VietNVB | 22:19 | thì vì lòng ngươi đã ăn năn, và ngươi biết hạ mình xuống trước mặt CHÚA, khi ngươi nghe Ta nói nghịch lại chốn nầy, nghịch lại dân nầy, rằng chúng sẽ bị hoang vu và sẽ thành nơi nguyền rủa, nhưng vì ngươi đã xé áo mình và khóc lóc trước mặt Ta, Ta đã nghe ngươi. CHÚA phán vậy. | |
Chapter 23
II K | VietNVB | 23:1 | Bấy giờ Giô-si-a cho vời tất cả các trưởng lão của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đến gặp vua. | |
II K | VietNVB | 23:2 | Vua đi đến đền thờ CHÚA; đi theo vua có mọi người Giu-đa, toàn dân Giê-ru-sa-lem, các thầy tế lễ, các vị tiên tri, và hết thảy mọi người, cả nhỏ lẫn lớn. Vua đọc cho họ nghe mọi lời trong sách giao ước đã tìm được trong đền thờ CHÚA. | |
II K | VietNVB | 23:3 | Vua đứng nơi bục cao và lập một giao ước trước mặt CHÚA, quyết tâm đi theo CHÚA, gìn giữ các điều răn, sắc lịnh, và quy luật Ngài với tất cả tấm lòng và hết cả linh hồn; vua cam kết thực hiện những điều khoản giao ước đã ghi trong sách ấy. Toàn dân đồng tuyên thệ thực hiện giao ước ấy. | |
II K | VietNVB | 23:4 | Vua truyền cho thầy Thượng Tế Hinh-kia, những thầy tế lễ, và những người canh cửa đền thờ phải đem ra khỏi đền thờ tất cả những vật dụng đã làm cho thần Ba-anh, cho thần A-sê-ra, và cho tất cả những thần linh trên không trung. Vua đốt tất cả những thứ đó trong cánh đồng ở trũng Kết-rôn, bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem, rồi bảo đem tro chúng đến Bê-tên. | |
II K | VietNVB | 23:5 | Vua cách chức và đuổi hết các thầy cúng hình tượng mà các vua Giu-đa đã phong chức để dâng tế lễ trên các tế đàn ở những nơi cao trong các thành của Giu-đa hoặc ở xung quanh Giê-ru-sa-lem. Vua cũng cách chức và đuổi đi các thầy cúng chuyên dâng tế lễ cho thần Ba-anh, mặt trời, mặt trăng, các tinh tú, và các thiên binh trên trời. | |
II K | VietNVB | 23:6 | Vua cất khỏi đền thờ CHÚA trụ thờ thần A-sê-ra, đem nó ra ngoài thành Giê-ru-sa-lem, đến khe Kết-rôn, đốt nó tại khe Kết-rôn, nghiền nát nó thành bụi, rồi ném bụi nó trên mồ mả của thường dân. | |
II K | VietNVB | 23:7 | Vua cũng phá hủy tất cả nhà cửa của bọn đàn ông làm điếm trong đền thờ CHÚA, là nơi các phụ nữ dệt vải cho nữ thần A-sê-ra. | |
II K | VietNVB | 23:8 | Vua đem tất cả các thầy tế lễ trong các thành ở Giu-đa ra, rồi làm ô uế tất cả tế đàn ở những nơi cao, là nơi các thầy tế lễ đã dâng hương, từ Ghê-ba cho đến Bê-e Sê-ba. Vua phá hủy tất cả các miếu thờ thần ngoài cổng thành, gần bên cổng Giô-suê, quan thị trưởng, các miếu ấy ở bên trái của cổng thành. | |
II K | VietNVB | 23:9 | Tuy nhiên, các thầy tế lễ của các tế đàn ở những nơi cao không được đến với bàn thờ CHÚA ở Giê-ru-sa-lem, nhưng chỉ ăn bánh không men ở giữa anh em của họ mà thôi. | |
II K | VietNVB | 23:10 | Vua cũng làm ô uế Tô-phết trong thung lũng Bên Hi-nôm, để từ đó về sau không ai sẽ dùng nó thiêu dâng con trai hay con gái mình trong lửa cho thần Mo-lóc nữa. | |
II K | VietNVB | 23:11 | Vua dẹp bỏ khỏi cổng vào đền thờ CHÚA những tượng ngựa mà các vua Giu-đa đã dâng cho mặt trời, ở trong sân, kề bên phòng của hoạn quan Na-than Mê-léc. Vua cũng đốt các xe chiến mã dâng cho mặt trời trong lửa. | |
II K | VietNVB | 23:12 | Vua phá hủy các bàn thờ trên sân thượng lầu của vua A-cha, mà các vua Giu-đa đã lập; còn các bàn thờ mà Ma-na-se đã xây trong hai sân của đền thờ CHÚA thì vua kéo xuống và đập vỡ ra từng mảnh, rồi đem quăng các mảnh vụn đó xuống khe Kết-rôn. | |
II K | VietNVB | 23:13 | Vua làm ô uế các tế đàn trên những nơi cao phía đông Giê-ru-sa-lem, phía nam của núi Hủy Diệt, mà vua Sa-lô-môn của Y-sơ-ra-ên đã xây cho Át-tạc-tê thần gớm ghiếc của dân Si-đôn, cho Kê-mốt thần gớm ghiếc của dân Mô-áp, Minh-côm thần gớm ghiếc của dân Am-môn. | |
II K | VietNVB | 23:14 | Vua đập nát các tượng thờ bằng đá thành từng mảnh, đốn ngã các trụ thờ nữ thần A-sê-ra, và chất đầy xương người vào những nơi đó. | |
II K | VietNVB | 23:15 | Ngoài ra, bàn thờ ở Bê-tên, tế đàn ở nơi cao do Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội, vua hủy phá bàn thờ ấy cùng với tế đàn ở nơi cao đó. Vua thiêu hủy tế đàn ở nơi cao đó, nghiền nó ra thành bụi. Vua cũng đốt luôn trụ thờ nữ thần A-sê-ra. | |
II K | VietNVB | 23:16 | Khi vua Giô-si-a quay lại thì thấy những ngôi mộ trên núi. Vua cho người đến lấy những xương cốt ra khỏi những ngôi mộ ấy, rồi đem đốt chúng trên bàn thờ, để làm ô uế bàn thờ, y như lời của CHÚA mà người của Đức Chúa Trời đã tuyên bố trong dịp Giê-rô-bô-am đứng bên bàn thờ trong kỳ lễ. Vua cũng quay lại, nhìn lên và thấy lăng mộ của người Đức Chúa Trời, là người đã báo trước những điều nầy. | |
II K | VietNVB | 23:17 | Vua hỏi: Lăng mộ ta thấy đó là lăng mộ của ai vậy?Dân trong thành ấy đáp: Tâu đó là lăng mộ của người Đức Chúa Trời từ Giu-đa đến, để nói trước những điều nầy, mà vua đã làm hầu nghịch lại bàn thờ ở Bê-tên. | |
II K | VietNVB | 23:18 | Vua phán: Hãy để người an nghỉ ở đó. Đừng ai lấy xương cốt của người đi. Vậy họ để yên xương cốt vị tiên tri ấy ở đó, cùng với xương cốt của ông tiên tri ở Sa-ma-ri. | |
II K | VietNVB | 23:19 | Ngoài ra, Giô-si-a cũng phá dỡ tất cả các đền miếu trên những nơi cao trong thành Sa-ma-ri, mà các vua Y-sơ-ra-ên đã xây dựng, để chọc giận CHÚA. Vua làm cho những nơi ấy giống như những gì vua đã làm tại Bê-tên. | |
II K | VietNVB | 23:20 | Vua đem tất cả các thầy cúng của các tế đàn trên những nơi cao có mặt tại đó mà giết hết trên các bàn thờ, rồi đốt xương người ta trên các bàn thờ đó. Xong rồi vua trở về Giê-ru-sa-lem. | |
II K | VietNVB | 23:21 | Vua truyền cho toàn dân: Hãy tổ chức lễ Vượt Qua cho CHÚA là Đức Chúa Trời của chúng ta như đã chép trong sách giao ước. | |
II K | VietNVB | 23:22 | Từ thời các thẩm phán đoán xét trên dân Y-sơ-ra-ên, hay trong thời của các vua Y-sơ-ra-ên hay trong thời các vua Giu-đa, người ta chưa hề thấy một lễ Vượt Qua nào được tổ chức như vậy. | |
II K | VietNVB | 23:23 | Nhưng vào năm thứ mười tám triều vua Giô-si-a lễ Vượt Qua nầy đã được tổ chức cho CHÚA tại Giê-ru-sa-lem. | |
II K | VietNVB | 23:24 | Ngoài ra, Giô-si-a cũng diệt trừ những đồng bóng, những thầy bói, những thần riêng của mỗi nhà, những hình tượng, và mọi điều gớm ghiếc đã thấy trong xứ Giu-đa và tại Giê-ru-sa-lem. Vua làm vậy để thực hiện đúng theo những lời đã viết trong sách Kinh Luật mà thầy Thượng Tế Hinh-kia đã tìm được trong đền thờ CHÚA. | |
II K | VietNVB | 23:25 | Trước vua, không có vua nào làm như vua; vua hướng về CHÚA hết lòng, hết linh hồn, và hết sức mà vâng theo mọi điều trong Kinh Luật của Môi-se; sau vua cũng chẳng có vua nào được như thế. | |
II K | VietNVB | 23:26 | Dầu vậy CHÚA vẫn không nguôi cơn thịnh nộ của Ngài. Cơn giận Ngài đã nhen lên nghịch lại Giu-đa, vì tất cả những việc khiêu khích mà Ma-na-se đã làm. | |
II K | VietNVB | 23:27 | CHÚA phán: Ta sẽ dẹp bỏ Giu-đa khỏi mặt Ta, như Ta đã dẹp bỏ Y-sơ-ra-ên. Ta sẽ loại bỏ thành Giê-ru-sa-lem nầy mà Ta đã chọn, cùng loại bỏ đền thờ nầy mà Ta đã nói: Danh Ta sẽ ngự tại đó. | |
II K | VietNVB | 23:28 | Những việc khác của Giô-si-a, tất cả những việc vua làm, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? | |
II K | VietNVB | 23:29 | Trong thời của vua, Pha-ra-ôn Nê-cô, vua của Ai-cập, đem quân đi giúp đỡ vua của A-si-ri bên bờ sông Ơ-phơ-rát. Nhưng vua Giô-si-a kéo quân ra nghênh chiến. Vừa khi gặp vua Giô-si-a tại Mê-ghi-đô, vua Nê-cô liền giết chết vua Giô-si-a. | |
II K | VietNVB | 23:30 | Các tôi tớ của vua từ Mê-ghi-đô mang xác vua về Giê-ru-sa-lem trên một xe chiến mã; rồi người ta đem chôn vua trong mộ của vua. Dân trong xứ lập Giô-a-cha, con trai vua Giô-si-a, xức dầu cho, và tôn người ấy lên làm vua kế vị cho cha. | |
II K | VietNVB | 23:31 | Giô-a-cha được hai mươi ba tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì ba tháng tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Ha-mu-ta, con gái của Giê-mê-mi ở Líp-na. | |
II K | VietNVB | 23:33 | Pha-ra-ôn Nê-cô bắt giam vua tại Ríp-lát, trong xứ Ha-mát, hầu cho vua không trị vì tại Giê-ru-sa-lem được nữa, và bắt xứ phải nộp triều cống gồm ba ngàn ký bạc và ba mươi ký vàng. | |
II K | VietNVB | 23:34 | Pha-ra-ôn Nê-cô lập Ê-li-a-kim, con trai Giô-si-a, lên ngôi làm vua kế vị cho cha là Giô-si-a và bắt đổi tên lại là Giê-hô-gia-kim. Còn Giô-a-cha thì bị bắt đem đi lưu đày ở Ai-cập và qua đời tại đó. | |
II K | VietNVB | 23:35 | Giê-hô-gia-kim nộp cho Pha-ra-ôn số bạc vàng vua ấy yêu cầu, nhưng vua phải đánh thuế dân trong xứ để có số bạc vàng mà Pha-ra-ôn đòi hỏi. Vua bắt dân đóng thuế bằng bạc vàng tùy theo tài sản mỗi người, rồi lấy đó mà nộp cho Pha-ra-ôn Nê-cô. | |
II K | VietNVB | 23:36 | Giê-hô-gia-kim được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Xê-bi-đa, con gái của Phê-đa-gia ở Ru-ma. | |
Chapter 24
II K | VietNVB | 24:1 | Trong thời vua Giê-hô-gia-kim trị vì, vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn đi lên xâm chiếm xứ và vua Giê-hô-gia-kim phải thần phục trong ba năm. Nhưng sau đó vua đổi ý và chống lại vua Ba-by-lôn. | |
II K | VietNVB | 24:2 | CHÚA sai các đạo quân Canh-đê, A-ram, Mô-áp, và Am-môn đến tấn công để hủy diệt Giu-đa theo như lời của CHÚA mà các tôi tớ Ngài là các vị tiên tri đã nói trước. | |
II K | VietNVB | 24:3 | Việc nầy xảy đến cho Giu-đa quả hẳn là do lịnh của CHÚA, để dẹp bỏ họ khỏi trước mặt Ngài, vì cớ những tội lỗi của Ma-na-se, và vì mọi điều vua ấy đã làm, | |
II K | VietNVB | 24:4 | và cũng vì những máu vô tội đã đổ ra nữa; vì vua ấy đã làm cho Giê-ru-sa-lem đầy tràn những máu vô tội, và CHÚA không muốn bỏ qua chuyện đó. | |
II K | VietNVB | 24:5 | Những việc khác của Giê-hô-gia-kim, tất cả những việc vua làm, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? | |
II K | VietNVB | 24:6 | Rồi Giê-hô-gia-kim an giấc với các tổ phụ mình, Giê-hô-gia-kin là con trai vua lên ngôi kế vị. | |
II K | VietNVB | 24:7 | Vua của Ai-cập không dám ra khỏi xứ của mình nữa, vì vua của Ba-by-lôn đã chiếm tất cả lãnh thổ thuộc về vua Ai-cập từ khe Ai-cập cho đến sông Ơ-phơ-rát. | |
II K | VietNVB | 24:8 | Giê-hô-gia-kin được mười tám tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì được ba tháng tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Nê-hu-ta, con gái của Ên-na-than ở Giê-ru-sa-lem. | |
II K | VietNVB | 24:10 | Trong lúc đó các tôi tớ của Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, kéo lên bao vây thành Giê-ru-sa-lem. | |
II K | VietNVB | 24:11 | Vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn đến trước thành, đang khi quân đội của vua đang bao vây nó. | |
II K | VietNVB | 24:12 | Vua Giê-hô-gia-kin của Giu-đa ra đầu hàng vua Ba-by-lôn; vua, mẹ vua, bầy tôi của vua, các tướng lãnh của vua, và các triều thần của vua. Vua Ba-by-lôn bắt vua Giê-hô-gia-kin đem giam trong ngục vào năm thứ tám của triều mình. | |
II K | VietNVB | 24:13 | Vua Ba-by-lôn mang đi tất cả các kho tàng của đền thờ CHÚA, và các kho tàng của hoàng cung. Vua đập vỡ mọi khí cụ bằng vàng mà vua Sa-lô-môn đã làm cho đền thờ CHÚA, y như mọi lời mà CHÚA đã bảo trước. | |
II K | VietNVB | 24:14 | Vua bắt đi mọi người dân Giê-ru-sa-lem, tất cả các tướng lãnh, tất cả những chiến sĩ dũng mãnh; gồm tất cả là mười ngàn người bị đem đi lưu đày. Tất cả các chuyên viên và những thợ rèn đều bị bắt đi hết, không chừa lại ai, ngoại trừ những người nghèo khó cùng cực trong xứ. | |
II K | VietNVB | 24:15 | Vậy vua Ba-by-lôn bắt vua Giê-hô-gia-kin đem về Ba-by-lôn; cùng với mẹ của vua, các vợ của vua, các quan chức, và những người quyền quý trong xứ mà đem lưu đày họ từ Giê-ru-sa-lem qua Ba-by-lôn. | |
II K | VietNVB | 24:16 | Vua Nê-bu-cát-nết-sa bắt đem về Ba-by-lôn bảy ngàn chiến sĩ, một ngàn chuyên viên và thợ rèn. Hết thảy đều là những người có khả năng chiến đấu. | |
II K | VietNVB | 24:17 | Rồi vua ấy lập Ma-tha-nia, chú của Giê-hô-gia-kin, lên ngôi làm vua thế vị, và bắt đổi tên là Sê-đê-kia. | |
II K | VietNVB | 24:18 | Sê-đê-kia được hai mươi mốt tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì được mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Ha-mu-ta, con gái của Giê-rê-mi ở Líp-na. | |
Chapter 25
II K | VietNVB | 25:1 | Năm thứ chín triều Sê-đê-kia, vào ngày mồng mười, tháng mười, vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn đem hết đạo quân mình đến tấn công Giê-ru-sa-lem và bao vây thành. Vua đóng trại bên ngoài và đắp lũy bao vây thành. | |
II K | VietNVB | 25:3 | Vào ngày mồng chín, tháng tư, nạn đói hoành hành trong thành dữ dội; dân chúng không có bánh ăn. | |
II K | VietNVB | 25:4 | Trong khi đó thì quân Canh-đê phá được một lỗ thủng nơi vách thành. Ban đêm, vua và quân lính bỏ thành chạy trốn. Họ bỏ trốn qua cổng giữa hai bức tường, gần nơi vườn ngự uyển. Mặc dù biết có quân Canh-đê đang bao vây, họ vẫn nhắm hướng A-ra-ba mà chạy. | |
II K | VietNVB | 25:5 | Nhưng quân đội Canh-đê rượt theo vua. Họ bắt sống được vua trong đồng bằng Giê-ri-cô. Quân đội của vua bèn tan rã. Họ bỏ vua mà đào thoát. | |
II K | VietNVB | 25:7 | Quân Canh-đê giết các con trai của vua Sê-đê-kia trước mắt vua; chúng móc mắt vua Sê-đê-kia, lấy xích đồng mà xiềng vua lại, rồi dẫn vua về Ba-by-lôn. | |
II K | VietNVB | 25:8 | Vào ngày bảy, tháng năm, tức là năm thứ mười chín triều vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn, thì Nê-bu-xa-ra-đan, quan chỉ huy quân thị vệ, tôi tớ của vua Ba-by-lôn, vào thành Giê-ru-sa-lem. | |
II K | VietNVB | 25:9 | Ông phóng hỏa đốt đền thờ CHÚA, cung điện nhà vua, và tất cả nhà cửa trong thành Giê-ru-sa-lem. Ông cũng đốt hết thảy những dinh thự của các nhà quyền quý trong thành. | |
II K | VietNVB | 25:10 | Rồi toàn quân Canh-đê theo lệnh của quan chỉ huy quân thị vệ đập phá những tường thành bao quanh Giê-ru-sa-lem. | |
II K | VietNVB | 25:11 | Nê-bu-xa-ra-đan, quan chỉ huy quân thị vệ, bắt đem lưu đày tất cả những người còn lại trong thành, những người đào ngũ theo vua Ba-by-lôn, và những chuyên viên còn sót lại trong dân, mà đem đi hết thảy. | |
II K | VietNVB | 25:12 | Nhưng quan chỉ huy quân thị vệ có chừa lại một ít người nghèo khổ nhất trong xứ để trồng nho và làm ruộng. | |
II K | VietNVB | 25:13 | Những trụ đồng trong đền thờ CHÚA, những giàn xe đồng, và chiếc bể đồng nơi đền thờ CHÚA đều bị quân Canh-đê cắt ra từng mảnh, rồi chở cả thảy số đồng đó về Ba-by-lôn. | |
II K | VietNVB | 25:14 | Chúng cũng lấy đi những nồi đồng, vá đồng, dao, chén, và mọi vật dụng bằng đồng để dùng vào việc tế lễ trong đền thờ. | |
II K | VietNVB | 25:15 | Quan chỉ huy quân thị vệ cũng lấy đi các lư hương, các chậu, và tất cả những dụng cụ bằng vàng và bằng bạc. | |
II K | VietNVB | 25:16 | Còn hai trụ đồng, cái bể đồng, và các giàn xe đồng mà vua Sa-lô-môn đã làm cho đền thờ CHÚA, thì số đồng nầy quá nhiều, không thể cân được. | |
II K | VietNVB | 25:17 | Mỗi trụ cao chín thước, bên trên đầu trụ có táng bằng đồng, cao một thước rưỡi; xung quanh táng được bao bằng lưới đồng và những trái thạch lựu đồng. Trụ đồng thứ nhì cũng thế, cũng có lưới đồng như vậy. | |
II K | VietNVB | 25:18 | Quan chỉ huy quân thị vệ bắt thầy Trưởng Tế Sê-ra-gia, thầy phó Trưởng Tế Sô-phô-ni, ba viên chức canh cửa đền thờ, | |
II K | VietNVB | 25:19 | lại cũng bắt một tướng chỉ huy quân đội trong thành, năm người trong bộ tham mưu của vua còn sót lại trong thành, quan bí thư là phụ tá của quan Tổng Tư Lệnh quân đội, cũng là người đặc trách việc chiêu mộ quân binh trong xứ, cùng sáu mươi người của xứ bắt được trong thành. | |
II K | VietNVB | 25:20 | Nê-bu-xa-ra-đan, quan chỉ huy quân thị vệ, bắt họ và dẫn họ đến vua Ba-by-lôn ở Ríp-ba. | |
II K | VietNVB | 25:21 | Vua Ba-by-lôn truyền giết họ tại Ríp-ba, trong xứ Ha-mát. Như vậy, dân Giu-đa bị bắt đi lưu đày khỏi xứ sở họ. | |
II K | VietNVB | 25:22 | Vua Nê-bu-cát-nết-sa chỉ định Ghê-đa-lia, con trai A-hi-cam, cháu của Sa-phan, làm tổng trấn trên dân cư còn sót lại trong xứ Giu-đa; đó là những người mà vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn còn chừa lại. | |
II K | VietNVB | 25:23 | Khi các tướng lãnh chỉ huy quân kháng chiến và lực lượng của họ hay rằng Ghê-đa-lia đã được vua Ba-by-lôn bổ nhiệm làm tổng trấn, thì họ kéo nhau đến gặp Ghê-đa-lia tại Mích-ba. Đó là các ông Ích-ma-ên con trai Nê-tha-nia, Giô-ha-nan con trai Ca-rê-át, Xê-ra-gia con trai Tan-hu-mết ở Nê-tô-pha, và Gia-a-xa-nia con trai Ma-ca-thít. | |
II K | VietNVB | 25:24 | Ghê-đa-lia thề với họ và những đội quân của họ rằng: Đừng sợ các viên chức người Canh-đê. Cứ ở trong xứ, thần phục vua Ba-by-lôn, thì các ông sẽ bình an. | |
II K | VietNVB | 25:25 | Nhưng đến tháng bảy thì Ích-ma-ên con trai Nê-tha-nia, cháu của Ê-li-sa-ma, thuộc dòng hoàng tộc, đến tại Mích-ba, cùng với mười người theo ông. Họ vào giết chết Ghê-đa-lia, cùng với những người Giu-đa và Canh-đê đang ở với Ghê-đa-lia lúc đó. | |
II K | VietNVB | 25:26 | Đoạn cả dân chúng, từ nhỏ đến lớn, cùng với các tướng lãnh và quân kháng chiến, đứng dậy, đi đến xứ Ai-cập, vì họ sợ người Canh-đê báo thù. | |
II K | VietNVB | 25:27 | Năm thứ ba mươi bảy kể từ khi vua Giê-hô-gia-kin của Giu-đa bị lưu đày, tức là năm thứ nhất triều vua Ê-vin Mê-rô-đác, vào ngày hai mươi bảy, tháng mười hai trong năm đầu trị vì, vua phóng thích Giê-hô-gia-kin, vua Giu-đa, ra khỏi ngục. | |
II K | VietNVB | 25:28 | Vua dùng lời tử tế nói với vua Giê-hô-gia-kin, và ban cho vua một ngôi vị cao hơn ngôi vị các vua cùng bị quản thúc tại Ba-by-lôn. | |
II K | VietNVB | 25:29 | Vua cho Giê-hô-gia-kin cởi bỏ áo tù ra và hằng ngày được ngồi ăn đồng bàn với vua trọn đời mình. | |