Site uses cookies to provide basic functionality.

OK
NUMBERS
Up
Toggle notes
Chapter 1
Numb VietNVB 1:1  Ngày mồng một tháng hai năm thứ nhì, sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, CHÚA phán bảo Môi-se tại Trại Hội Kiến trong sa mạc Si-nai:
Numb VietNVB 1:2  Con hãy kiểm tra dân số của toàn dân Y-sơ-ra-ên tùy theo họ hàng và gia đình, liệt kê danh sách tất cả nam đinh từng người một.
Numb VietNVB 1:3  Con và A-rôn phải đếm tất cả người nam trong Y-sơ-ra-ên theo từng đơn vị, từ hai mươi tuổi trở lên, là những người có khả năng phục vụ trong quân đội. Các trưởng chi tộc sẽ đại diện cho chi tộc mình để cộng tác với con
Numb VietNVB 1:4  và A-rôn. Đây là danh sách những người đứng ra giúp các ngươi:
Numb VietNVB 1:5  Chi tộc Ru-bên, Ê-li-sua, con trai Sê-đêu;
Numb VietNVB 1:6  Chi tộc Si-mê-ôn, Sê-lu-miên, con trai Xu-ri-ha-đai;
Numb VietNVB 1:7  Chi tộc Giu-đa, Na-ha-sôn, con trai A-mi-na-đáp;
Numb VietNVB 1:8  Chi tộc Y-sa-ca, Na-tha-na-ên, con trai Xu-a;
Numb VietNVB 1:9  Chi tộc Sa-bu-luân, Ê-li-áp, con trai Hê-long.
Numb VietNVB 1:10  Con cháu Giô-sép:Chi tộc Ép-ra-im, Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút;Chi tộc Ma-na-se, Ga-ma-liên, con trai Phê-đát-su.
Numb VietNVB 1:11  Chi tộc Bên-gia-min, A-bi-đan, con trai Ghi-đeo-ni.
Numb VietNVB 1:12  Chi tộc Đan, A-hi-ê-xe, con trai Am-mi-sa-đai.
Numb VietNVB 1:14  Chi tộc Gát, Ê-li-a-sáp, con trai Đê-u-ên.
Numb VietNVB 1:16  Đó là những người được bổ nhiệm từ trong nhân dân, là trưởng chi tộc các chi tộc của tổ phụ mình và là những người chỉ huy các đơn vị quân đội Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 1:17  Môi-se và A-rôn tiếp nhận các người đã được nêu danh,
Numb VietNVB 1:18  và triệu tập toàn thể nhân dân vào ngày mồng một tháng hai theo danh sách từng người một từ hai mươi tuổi trở lên; mỗi người đăng ký theo họ hàng và gia đình mình,
Numb VietNVB 1:19  như CHÚA đã truyền lệnh cho Môi-se. Môi-se kiểm tra dân số trong sa mạc Si-nai:
Numb VietNVB 1:20  Con cháu Ru-bên là trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội,
Numb VietNVB 1:22  Con cháu Si-mê-ôn, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội,
Numb VietNVB 1:24  Con cháu Gát, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội,
Numb VietNVB 1:26  Con cháu Giu-đa, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội,
Numb VietNVB 1:28  Con cháu Y-sa-ca, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội,
Numb VietNVB 1:30  Con cháu Sa-bu-luân, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội,
Numb VietNVB 1:32  Các con trai của Giô-sép gồm có Ép-ra-im và Ma-na-se.Con cháu Ép-ra-im, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội,
Numb VietNVB 1:34  Con cháu Ma-na-se, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội,
Numb VietNVB 1:36  Con cháu Bên-gia-min, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội,
Numb VietNVB 1:38  Con cháu Đan, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội,
Numb VietNVB 1:40  Con cháu A-se, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội,
Numb VietNVB 1:42  Con cháu Nép-ta-li, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội,
Numb VietNVB 1:44  Đó là những người mà Môi-se, A-rôn và mười hai trưởng chi tộc của Y-sơ-ra-ên đã kiểm tra, mỗi trưởng chi tộc đại diện cho chi tộc mình.
Numb VietNVB 1:45  Tất cả người Y-sơ-ra-ên từ hai mươi tuổi trở lên và có khả năng phục vụ trong quân đội Y-sơ-ra-ên đều được kiểm điểm theo gia đình mình.
Numb VietNVB 1:47  Tuy nhiên, các gia đình của chi tộc Lê-vi không được kiểm tra như người các chi tộc khác.
Numb VietNVB 1:49  Con không nên kiểm kê chi tộc Lê-vi, hoặc bao gồm họ trong cuộc kiểm tra dân số của người Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 1:50  Nhưng cử người Lê-vi đặc trách Đền Tạm Chứng Cớ, coi sóc tất cả vật dụng và những gì thuộc về Đền Tạm. Họ phải khuân vác Đền Tạm và tất cả các vật dụng, chăm sóc và cắm trại xung quanh Đền Tạm.
Numb VietNVB 1:51  Khi nào cần di chuyển, người Lê-vi phải tháo dỡ Đền Tạm ra; và mỗi khi nhân dân cắm trại, người Lê-vi sẽ dựng Đền Tạm lại. Bất cứ kẻ nào khác đến gần Đền Tạm sẽ bị xử tử.
Numb VietNVB 1:52  Dân Y-sơ-ra-ên phải cắm trại theo từng đơn vị, mỗi người ở trong trại riêng dưới ngọn cờ của chi tộc mình.
Numb VietNVB 1:53  Tuy nhiên người Lê-vi phải dựng trại xung quanh Đền Tạm Chứng Cớ để cơn thạnh nộ không đổ xuống trên dân Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi phải chịu trách nhiệm chăm sóc Đền Tạm Chứng Cớ.
Numb VietNVB 1:54  Dân Y-sơ-ra-ên thực thi tất cả những điều CHÚA truyền bảo Môi-se.
Chapter 2
Numb VietNVB 2:2  Dân Y-sơ-ra-ên phải cắm trại xung quanh nhưng cách xa Trại Hội Kiến, mỗi người phải cắm trại dưới ngọn cờ của đơn vị mình với bảng hiệu chi tộc.
Numb VietNVB 2:3  Trại quân Giu-đa sẽ cắm tại phía đông, hướng mặt trời mọc với ngọn cờ và các đơn vị mình. Chỉ huy trưởng chi tộc Giu-đa là Na-ha-sôn, con Am-mi-na-đáp.
Numb VietNVB 2:4  Quân số của người được 74.600 người.
Numb VietNVB 2:5  Chi tộc Y-sa-ca sẽ cắm trại gần bên Giu-đa. Chỉ huy trưởng của Y-sa-ca là Na-tha-na-ên, con Xu-a.
Numb VietNVB 2:6  Quân số của người được 54.400 người.
Numb VietNVB 2:7  Tiếp theo là chi tộc Sa-bu-luân. Chỉ huy trưởng của Sa-bu-luân là Ê-li-áp, con Hê-long.
Numb VietNVB 2:9  Tất cả nhân số trong trại quân Giu-đa, chia từng đội ngũ, được 186.400 người. Họ sẽ đi tiên phong.
Numb VietNVB 2:10  Trại quân Ru-bên sẽ cắm tại phía nam, dưới ngọn cờ mình. Chỉ huy trưởng Ru-bên là Ê-li-sua, con Sê-đêu.
Numb VietNVB 2:11  Quân số của người được 46.500 người.
Numb VietNVB 2:12  Chi tộc Si-mê-ôn sẽ cắm trại gần bên Ru-bên. Chỉ huy trưởng Si-mê-ôn là Sê-lu-miên, con Xu-ri-ha-đai.
Numb VietNVB 2:13  Quân số của người được 59.300 người.
Numb VietNVB 2:14  Tiếp theo là chi tộc Gát. Chỉ huy trưởng Gát là Ê-li-a-sáp, con Đê-u-ên.
Numb VietNVB 2:15  Quân số của người được 45.650 người.
Numb VietNVB 2:16  Tất cả nhân số trong trại quân Ru-bên, chia từng đội ngũ, được 151.450 người. Họ sẽ đi thứ nhì.
Numb VietNVB 2:17  Sau đó, Trại Hội Kiến và trại quân Lê-vi sẽ ra đi chính giữa các trại quân khác. Họ sẽ ra đi theo đúng thứ tự như họ đã cắm trại, mỗi người theo hàng ngũ dưới ngọn cờ mình.
Numb VietNVB 2:18  Trại quân Ép-ra-im sẽ cắm tại phía tây, dưới ngọn cờ mình. Chỉ huy trưởng Ép-ra-im là Ê-li-sa-ma, con A-mi-hút.
Numb VietNVB 2:19  Quân số của người được 40.500 người.
Numb VietNVB 2:20  Chi tộc Ma-na-se sẽ cắm trại gần bên Ép-ra-im. Chỉ huy trưởng Ma-na-se là Ga-ma-liên, con Phê-đát-su.
Numb VietNVB 2:21  Quân số của người được 32.200 người.
Numb VietNVB 2:22  Tiếp theo là chi tộc Bên-gia-min. Chỉ huy trưởng Bên-gia-min là A-bi-đan, con Ghi-đeo-ni.
Numb VietNVB 2:24  Tất cả nhân số trong trại quân Ép-ra-im, chia từng đội ngũ, được 108.100 người. Họ sẽ đi thứ ba.
Numb VietNVB 2:25  Trại quân Đan sẽ cắm tại phía bắc, dưới ngọn cờ mình. Chỉ huy trưởng Đan là A-hi-ê-xe, con Am-mi-sa-đai.
Numb VietNVB 2:26  Quân số của người được 62.700 người.
Numb VietNVB 2:27  Chi tộc A-se sẽ cắm trại gần bên Đan. Chỉ huy trưởng A-se là Pha-ghi-ên, con Óc- ran.
Numb VietNVB 2:28  Quân số của người được 41.500 người.
Numb VietNVB 2:29  Tiếp theo là chi tộc Nép-ta-li. Chỉ huy trưởng Nép-ta-li là A-hi-ra, con Ê-nan.
Numb VietNVB 2:30  Quân số của người được 53.400 người.
Numb VietNVB 2:31  Tất cả nhân số trong trại quân Đan, chia từng đội ngũ, được 157.600 người. Họ sẽ đi hậu tập.
Numb VietNVB 2:32  Đó là những người Y-sơ-ra-ên được kiểm kê theo từng chi tộc. Tổng số quân sĩ trong các trại quân, chia từng đội ngũ, là 603.550.
Numb VietNVB 2:33  Tuy nhiên, người Lê-vi không được kiểm kê với những người Y-sơ-ra-ên khác, như CHÚA đã truyền bảo Môi-se.
Numb VietNVB 2:34  Như thế, dân Y-sơ-ra-ên thực thi mọi điều CHÚA đã truyền bảo Môi-se. Đó là cách mà họ bố trí các trại quân dưới ngọn cờ mình; đó cũng là cách xuất quân mỗi người theo họ hàng và chi tộc mình.
Chapter 3
Numb VietNVB 3:1  Đây là những người trong gia đình A-rôn và Môi-se trong thời gian CHÚA phán với Môi-se trên núi Si-nai.
Numb VietNVB 3:2  Tên các con trai A-rôn là: Na-đáp, con trưởng nam, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma.
Numb VietNVB 3:3  Đó là tên các con trai A-rôn tức các thầy tế lễ được xức dầu và tấn phong để phục vụ trong chức tế lễ.
Numb VietNVB 3:4  Tuy nhiên, Na-đáp và A-bi-hu đã ngã chết trước mặt CHÚA khi họ dâng hương lên CHÚA trong sa mạc Si-nai bằng một thứ lửa Ngài không cho phép. Họ không có con trai nên chỉ có Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma phục vụ trong chức thấy tế lễ dưới sự hướng dẫn của A-rôn, cha họ.
Numb VietNVB 3:6  Con hãy đem chi tộc Lê-vi đến, đặt họ dưới quyền thầy tế lễ A-rôn để họ giúp đỡ người.
Numb VietNVB 3:7  Họ phải thi hành các nhiệm vụ thay cho A-rôn và toàn thể nhân dân tại Trại Hội Kiến bằng cách phục vụ trong Đền Tạm.
Numb VietNVB 3:8  Họ phải chăm sóc tất cả các vật dụng trong Trại Hội Kiến, thi hành các bổn phận của dân Y-sơ-ra-ên bằng cách phục vụ trong Đền Tạm.
Numb VietNVB 3:9  Trong vòng người Y-sơ-ra-ên họ là những người duy nhất được giao trọn cho A-rôn.
Numb VietNVB 3:10  Con hãy bổ nhiệm A-rôn và các con trai người làm thầy tế lễ; bất cứ người nào khác xâm phạm vào chức vụ này sẽ bị xử tử.
Numb VietNVB 3:12  Ta đã chọn người Lê-vi giữa dân Y-sơ-ra-ên để thay thế cho các con trai đầu lòng của mỗi người đàn bà Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi thuộc về Ta,
Numb VietNVB 3:13  vì tất cả các con đầu lòng đều thuộc về Ta. Khi Ta đánh hạ tất cả các con đầu lòng tại Ai-cập, Ta đã biệt riêng cho Ta tất cả các con đầu lòng của Y-sơ-ra-ên, cả người lẫn thú vật. Họ phải thuộc về Ta. Ta là CHÚA.
Numb VietNVB 3:15  Con hãy kiểm tra dân số người Lê-vi tùy theo gia tộc và họ hàng. Con hãy kiểm kê tất cả người nam từ một tháng trở lên.
Numb VietNVB 3:16  Như vậy, Môi-se kiểm kê họ đúng như lời CHÚA truyền bảo mình.
Numb VietNVB 3:17  Đây là tên các con trai Lê-vi:Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri.
Numb VietNVB 3:18  Đây là tên con trai Ghẹt-sôn:Líp-ni và Si-mê-i.
Numb VietNVB 3:19  Con trai Kê-hát là:Am-ram, Dít-sa, Hếp-rôn và U-xi-ên.
Numb VietNVB 3:20  Con trai Mê-ra-ri là:Mách-li và Mu-si.Đó là những tổ các thị tộc trong chi tộc Lê-vi.
Numb VietNVB 3:21  Con cháu Líp-ni là Si-mê-i thuộc về Ghẹt-sôn; đó là dòng họ Ghẹt-sôn.
Numb VietNVB 3:22  Tổng số người nam từ một tháng trở lên được 7.500 người.
Numb VietNVB 3:23  Dòng họ Ghẹt-sôn phải cắm trại phía tây đằng sau Đền Tạm.
Numb VietNVB 3:24  Người lãnh đạo gia tộc Ghẹt-sôn là Ê-li-a-sáp, con La-ên.
Numb VietNVB 3:25  Trách nhiệm của dòng họ Ghẹt-sôn tại Trại Hội Kiến gồm có: Đền Tạm, trại, mái phủ trại, bức màn tại cửa Trại Hội Kiến,
Numb VietNVB 3:26  các bức màn trong hành lang, bức màn tại cửa hành lang bao quanh Đền Tạm và bàn thờ, và các sợi dây thừng cùng tất cả các dịch vụ bảo quản những thứ đó.
Numb VietNVB 3:27  Dòng họ Am-ram, Dít-sa, Hếp-rôn, và U-xi-ên thuộc về Kê-hát; đó là dòng họ Kê-hát.
Numb VietNVB 3:28  Tổng số người nam từ một tuổi trở lên được 8.600 người. Dòng họ Kê-hát chịu trách nhiệm chăm sóc Nơi Thánh.
Numb VietNVB 3:29  Dòng họ Kê-hát phải cắm trại phía nam Đền Tạm.
Numb VietNVB 3:30  Người lãnh đạo gia tộc Kê-hát là Ê-li-sa-phan, con U-xi-ên.
Numb VietNVB 3:31  Họ chịu trách nhiệm chăm sóc Rương Giao Ước, cái bàn, chân đèn, các bàn thờ, và dịch vụ bảo quản những thứ đó, cùng tấm màn và các vật dụng phụ thuộc.
Numb VietNVB 3:32  Đứng đầu các vị lãnh đạo chi tộc Lê-vi là Ê-lê-a-sa, con trai thầy tế lễ A-rôn; ông giám sát những người chịu trách nhiệm coi sóc Nơi Thánh.
Numb VietNVB 3:33  Họ hàng Mách-li và họ hàng Mu-si thuộc về Mê-ra-ri: đó là dòng họ Mê-ra-ri.
Numb VietNVB 3:34  Tổng số người nam từ một tháng trở lên được 6.200 người.
Numb VietNVB 3:35  Người lãnh đạo gia tộc Mê-ra-ri là Xu-ri-ên, con A-bi-hai: họ phải cắm trại phía bắc Đền Tạm.
Numb VietNVB 3:36  Người Mê-ra-ri được bổ nhiệm coi sóc các khung của Đền Tạm, các cây xà ngang, các cây cột, đế cột, cùng tất cả các vật dụng. Họ chịu tránh nhiệm bảo quản những thứ đó
Numb VietNVB 3:37  cùng coi sóc các cây cột và đế cột xung quanh hành lang, các cây cọc và dây thừng.
Numb VietNVB 3:38  Môi-se và A-rôn cùng các con trai người phải cắm trại ở phía đông Đền Tạm, về phía mặt trời mọc ngay trước Trại Hội Kiến. Họ phải chịu trách nhiệm coi sóc Nơi Thánh thay cho dân Y-sơ-ra-ên. Kẻ nào khác xâm phạm đến gần Nơi Thánh sẽ bị xử tử.
Numb VietNVB 3:39  Tổng số người Lê-vi được kiểm kê theo lệnh CHÚA truyền cho Môi-se và A-rôn, chia theo từng họ hàng, tức là các con trai từ một tháng trở lên, được 22.000 người.
Numb VietNVB 3:40  CHÚA phán dạy Môi-se: Con hãy kiểm kê tất cả các con trai đầu lòng người Y-sơ-ra-ên từ một tháng trở lên, và lập bảng danh sách.
Numb VietNVB 3:41  Con hãy thu nhận cho Ta người Lê-vi thay cho tất cả các con đầu lòng người Y-sơ-ra-ên, và các bầy gia súc của người Lê-vi thay cho tất cả các con đầu lòng của gia súc người Y-sơ-ra-ên. Ta là CHÚA.
Numb VietNVB 3:42  Như thế, Môi-se kiểm kê tất cả các con đầu lòng của người Y-sơ-ra-ên như CHÚA đã truyền bảo người.
Numb VietNVB 3:43  Tổng số con trai đầu lòng liệt kê từng tên, được 22.273 người.
Numb VietNVB 3:45  Con hãy thu nhận người Lê-vi thay cho tất cả các con đầu lòng người Y-sơ-ra-ên và gia súc của người Lê-vi thay cho gia súc của người Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi thuộc về Ta. Ta là CHÚA.
Numb VietNVB 3:46  Về phần 273 con đầu lòng Y-sơ-ra-ên là số trội hơn tổng số người Lê-vi,
Numb VietNVB 3:47  con hãy chuộc lại bằng cách thu mỗi người một lượng rưỡi bạc theo tiêu chuẩn cân đo trong Nơi Thánh.
Numb VietNVB 3:48  Hãy giao số bạc chuộc các người Y-sơ-ra-ên phụ trội đó cho A-rôn và các con trai người.
Numb VietNVB 3:49  Như thế, Môi-se thu bạc chuộc của những người phụ trội đó.
Numb VietNVB 3:50  Môi-se thu được 415 lượng và hai chỉ bảy bạc của các con đầu lòng người Y-sơ-ra-ên, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh.
Numb VietNVB 3:51  Môi-se giao bạc chuộc đó cho A-rôn và các con trai người, đúng như lời CHÚA đã truyền bảo mình.
Chapter 4
Numb VietNVB 4:2  Con hãy kiểm tra dân số người Kê-hát, tức là một ngành trong tộc Lê-vi, theo từng họ hàng và gia đình.
Numb VietNVB 4:3  Con hãy kiểm kê tất cả người nam từ ba mươi đến năm mươi tuổi, trong lứa tuổi phục vụ để họ đảm nhiệm công tác tại Trại Hội Kiến.
Numb VietNVB 4:4  Đây là công việc của người Kê-hát tại Trại Hội Kiến: chăm sóc các vật chí thánh.
Numb VietNVB 4:5  Khi nào trại quân dời đi, A-rôn và các con trai người phải vào gỡ bức màn ngăn che nơi thánh và phủ lên Rương Chứng Cớ;
Numb VietNVB 4:6  rồi phủ lên trên các tấm da cá heo, trải tấm vải mầu xanh lên trên cùng, rồi sửa đòn khiêng cho ngay ngắn.
Numb VietNVB 4:7  Họ sẽ trải lên bàn đựng bánh thánh tấm khăn xanh rồi đặt lên khăn các đĩa, tô, chén và các bình dùng dâng rượu; bánh thánh dâng liên tục vẫn để y trên bàn.
Numb VietNVB 4:8  Trên tất cả những vật ấy, họ phải trải một tấm khăn đỏ thẫm, và trên cùng, phủ lên các tấm da cá heo, rồi xỏ đòn khiêng vào.
Numb VietNVB 4:9  Họ phải lấy một tấm khăn xanh phủ lên giá đèn để thắp sáng và các cây đèn, kéo cắt tim đèn và khay, và tất cả các bình đựng dầu để thắp đèn;
Numb VietNVB 4:10  rồi bọc giá đèn và các đồ phụ tùng bằng tấm da cá heo và đặt lên một đòn khiêng.
Numb VietNVB 4:11  Họ cũng phải trải một tấm khăn xanh trên bàn thờ bằng vàng, và phủ lên bằng các tấm da cá heo, rồi xỏ đòn khiêng vào.
Numb VietNVB 4:12  Tất cả các vật dụng trong việc phục vụ tại Nơi Thánh phải gói lại trong một tấm vải xanh và phủ lên bằng các tấm da cá heo.
Numb VietNVB 4:13  Họ phải hốt tro tại bàn thờ bằng đồng, trải lên bàn thờ một tấm vải mầu tím,
Numb VietNVB 4:14  và đặt tất cả các khí dụng tế lễ lên trên: các lư hương, xiên, xẻng, bát dùng vào việc rảy nước, tất cả các phụ tùng bàn thờ, rồi phủ lên các tấm da cá heo và xỏ đòn khiêng vào.
Numb VietNVB 4:15  Sau khi A-rôn và các con trai người đậy xong Nơi Thánh và tất cả các khí dụng thánh, và khi trại quân sẵn sàng dời đi, dòng họ Kê-hát phải đến khuân vác, nhưng họ không được chạm đến các vật thánh kẻo bị thiệt mạng. Dòng họ Kê-hát phải khuân vác các vật dụng trong Trại Hội Kiến.
Numb VietNVB 4:16  Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, con trai A-rôn, có nhiệm vụ lo về dầu thắp đèn, hương liệu, lễ vật chay hằng dâng và dầu xức; cũng phải coi sóc cả Đền Tạm và các vật dụng bên trong, kể cả các đồ bạc và vật dụng thánh.
Numb VietNVB 4:18  Đừng để gia tộc Kê-hát phải bị tiêu diệt.
Numb VietNVB 4:19  Đây là điều phải làm để giữ cho họ khỏi chết khi vào Nơi Thánh: A-rôn và các con ông sẽ vào nơi đó với họ, chỉ cho mỗi người vật gì họ phải khiêng.
Numb VietNVB 4:20  Tuyệt đối không ai được vào nơi đó để nhìn các vật thánh, dù chỉ trong giây lát; ai bất tuân đều phải chết.
Numb VietNVB 4:22  Cũng hãy kiểm tra các con cháu Ghẹt-sôn, tùy theo gia tộc và họ hàng họ.
Numb VietNVB 4:23  Từ ba mươi tuổi cho đến năm mươi tuổi, gồm những người trong lứa tuổi phục vụ, để họ đảm nhiệm công tác tại Trại Hội Kiến.
Numb VietNVB 4:25  họ sẽ khiêng các bức màn của Đền Tạm, Trại Hội Kiến, nóc lều, tấm da phủ nóc lều, tấm màn che cửa lều,
Numb VietNVB 4:26  các màn quanh hành lang, màn che cửa hành lang, hành lang bao quanh Trại, và bàn thờ, dây thừng và các dụng cụ khác. Những người thuộc gia tộc Ghẹt-sôn có nhiệm vụ di chuyển các vật ấy.
Numb VietNVB 4:27  Hết thảy công việc của con cháu Ghẹt-sôn, món chi họ phải khiêng đi, và việc chi họ phải làm đều sẽ theo lệnh A-rôn và các con trai người chỉ biểu; người phải giao cho họ coi sóc mọi món chi phải khiêng đi.
Numb VietNVB 4:28  Trong hội mạc, ấy là công việc của các họ hàng con cháu Ghẹt-sôn. Họ sẽ giữ chức phận mình dưới quyền cai trị của Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn.
Numb VietNVB 4:29  Ngươi phải kiểm tra con cháu Mê-ra-ri, tùy theo họ hàng và gia tộc của họ,
Numb VietNVB 4:30  từ ba mươi tuổi cho đến năm mươi, tức là hết thảy những người trong lứa tuổi phục vụ, để họ đảm nhiệm công tác tại Trại Hội Kiến.
Numb VietNVB 4:31  Họ sẽ khiêng khung Trại, các thanh ngang, trụ và đế trụ,
Numb VietNVB 4:32  trụ hành lang, đế trụ, cọc lều, dây và các đồ phụ tùng. Khi phân công người nào khiêng vật gì phải lập danh sách rõ ràng.
Numb VietNVB 4:33  Trên đây là nhiệm vụ của dòng họ Mê-ra-ri tại trại Hội Kiến dưới sự hướng dẫn của Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn.
Numb VietNVB 4:34  Vậy, Môi-se, A-rôn và các nhà lãnh đạo nhân dân bắt đầu kiểm tra gia tộc Kê-hát,
Numb VietNVB 4:35  gồm những người trong lứa tuổi phục vụ, từ ba mươi đến năm mươi tuổi, để đảm nhiệm công tác tại trại Hội Kiến.
Numb VietNVB 4:36  có được hai ngàn bảy trăm năm mươi người.
Numb VietNVB 4:37  Đó là tổng số người Kê-hát phục vụ tại trại Hội Kiến do Môi-se và A-rôn kiểm tra theo lời Chúa truyền cho Môi-se.
Numb VietNVB 4:38  Còn con cháu Ghẹt-sôn đã được kiểm tra, tuỳ theo họ hàng và gia tộc của họ,
Numb VietNVB 4:39  từ ba mươi đến năm mươi tuổi, tức là hết thảy những người trong lứa tuổi phục vụ đảm nhiệm công tác tại trại Hội Kiến,
Numb VietNVB 4:41  Đó là những người về gia tộc Ghẹt-sôn đã được kiểm tra, tức là những người hầu việc trong Trại mà Môi-se và A-rôn tu bộ y theo mạng của CHÚA.
Numb VietNVB 4:42  Còn những người thuộc về gia tộc Mê-ra-ri đã được kiểm tra, tùy theo gia tộc và họ hàng của họ,
Numb VietNVB 4:43  từ ba mươi cho đến năm mươi tuổi, tức là mọi người có khả năng phục vụ trong Trại,
Numb VietNVB 4:45  Đó là những người về các gia tộc Mê-ra-ri đã được kiểm tra. Môi-se và A-rôn kiểm tra dân, y theo lệnh của CHÚA đã cậy Môi-se truyền dạy.
Numb VietNVB 4:46  Hết thảy những người Lê-vi mà Môi-se, A-rôn và các quan trưởng Y-sơ-ra-ên kiểm tra, tùy theo họ hàng và gia tộc của họ,
Numb VietNVB 4:47  từ ba mươi cho đến năm mươi tuổi, tức là mọi người đến phục vụ và khuân vác đồ trong Trại,
Numb VietNVB 4:48  cộng được tám ngàn năm trăm tám mươi người.
Numb VietNVB 4:49  Người ta kiểm tra người Lê-vi theo lệnh CHÚA đã cậy Môi-se truyền dạy, cắt phần cho mỗi người việc mình phải làm, và vật chi mình phải khiêng đi; người ta kiểm tra dân theo lời CHÚA đã phán dạy Môi-se vậy.
Chapter 5
Numb VietNVB 5:2  Con dạy người Y-sơ-ra-ên phải trục xuất các người phung, người có chất lỏng xuất ra từ thân thể và người bị ô uế vì đụng vào xác người chết ra khỏi trại quân.
Numb VietNVB 5:3  Dù họ là đàn ông hay đàn bà cũng phải trục xuất để họ không làm ô uế trại quân, vì Ta ở giữa trại dân Ta.
Numb VietNVB 5:5  CHÚA lại bảo Môi-se dạy bảo người Y-sơ-ra-ên:
Numb VietNVB 5:6  Khi một người, dù đàn ông hay đàn bà phạm một tội gì với một người khác, và do đó phạm tội bất trung với CHÚA, người ấy phải nhận tội mình,
Numb VietNVB 5:7  phải xưng tội ra, bồi thường thiệt hại do mình gây ra, cộng thêm một phần năm số ấy cho nạn nhân.
Numb VietNVB 5:8  Trường hợp nạn nhân không còn ai để nhận bồi thường, số bồi thường phải nộp cho CHÚA và số ấy thuộc về thầy tế lễ, cộng thêm một con chiên để làm tế lễ chuộc tội.
Numb VietNVB 5:9  Phàm lễ vật chi biệt riêng ra thánh mà dân Y-sơ-ra-ên dâng cho thầy tế lễ, đều sẽ thuộc về người.
Numb VietNVB 5:10  Những vật biệt riêng ra thánh mà mỗi người dâng sẽ thuộc về người; vật chi mỗi người ban cho thầy tế lễ, chắc sẽ thuộc về người vậy.
Numb VietNVB 5:12  Hãy phán dạy dân Y-sơ-ra-ên rằng: Nếu một người đàn bà ngoại tình
Numb VietNVB 5:13  nhưng nàng giấu kín, không bị bắt quả tang, cũng không có nhân chứng,
Numb VietNVB 5:14  và nếu người chồng đâm nghi, nổi ghen khi vợ mình đã thất tiết hoặc nổi ghen trong khi vợ mình không thất tiết,
Numb VietNVB 5:15  người ấy nên đưa vợ mình đến gặp thầy tế lễ, cũng đem theo một lễ vật gồm một phần mười ê-pha bột lúa mạch không pha dầu, không rắc nhũ hương lên trên, vì đây là lễ vật ghen tương.
Numb VietNVB 5:16  Thầy tế lễ sẽ đem người vợ đến trước CHÚA,
Numb VietNVB 5:17  đổ nước thánh vào một cái bình bằng đất, bốc bụi dưới sàn Đền Tạm bỏ vào.
Numb VietNVB 5:18  Thầy tế lễ cũng xả tóc nàng, đặt lễ vật ghen tương vào tay nàng, tay thầy tế lễ cầm bình nước đắng nguyền rủa.
Numb VietNVB 5:19  Thầy tế lễ bảo nàng thề rồi nói: Nếu không có ai nằm với bà ngoài chồng bà, thì nước đắng nguyền rủa này sẽ không làm hại bà được.
Numb VietNVB 5:21  cầu CHÚA khiến cho nàng trở nên một mầm rủa sả và trù ẻo giữa vòng dân sự ngươi, làm cho ngươi ốm lòi hông và phình bụng lên;
Numb VietNVB 5:22  nước đắng rủa sả này khá chui vào ruột gan làm cho bụng ngươi phình lên và ốm lòi hông. Nàng sẽ nói: Xin cứ đúng như thế!
Numb VietNVB 5:23  Thầy tế lễ viết những lời nguyền rủa này vào sách, rồi rửa sách trong nước đắng.
Numb VietNVB 5:24  Khi nàng uống nước đắng nguyền rủa, nó sẽ gây nhiều cay đắng trong bụng.
Numb VietNVB 5:25  Thầy tế lễ sẽ lấy lễ vật ghen tương khỏi tay nàng, đem dâng đưa qua đưa lại trước CHÚA, rồi đem lễ vật đến trước bàn thờ;
Numb VietNVB 5:26  bốc một nắm bột tượng trưng cho toàn thể lễ vật, đem đốt trên bàn thờ, rồi bảo nàng uống nước.
Numb VietNVB 5:27  Nếu nàng ngoại tình; nước sẽ trở nên đắng trong bụng, bụng phình lên, đùi sụm xuống, nhân dân sẽ nhắc đến nàng mỗi khi trù ẻo, thề thốt.
Numb VietNVB 5:28  Nhưng nếu trong sạch nàng sẽ không bị hại mà vẫn có thể sinh nở.
Numb VietNVB 5:29  Đó là luật lệ về sự ghen tương khi một người đàn bà, ở dưới quyền chồng mình, lỗi đạo và bị ô uế,
Numb VietNVB 5:30  hoặc khi nào tánh ghen phát sanh nơi người chồng mà ghen vợ mình: người phải đem vợ đến trước mặt CHÚA và thầy tế lễ sẽ làm cho nàng hết thảy điều chi luật lệ nầy đã truyền dạy.
Numb VietNVB 5:31  Người chồng sẽ không có lỗi mặc dù hậu quả tai hại xảy ra cho vợ mình trong trường hợp vợ ngoại tình thật.
Chapter 6
Numb VietNVB 6:2  Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Nếu một người nam hay nữ muốn hứa nguyện biệt mình riêng cho Chúa, làm người Na-xi-rê,
Numb VietNVB 6:3  thì phải kiêng cử rượu và thức uống làm cho say, cũng không được uống giấm làm bằng rượu hoặc bằng một chất lên men. Cả đến nước ép nho cũng không được uống và không được phép ăn nho tươi hay khô.
Numb VietNVB 6:4  Suốt thời gian biệt mình riêng cho Chúa làm người Na-xi-rê, người ấy không được ăn uống bất cứ món nào từ cây nho, kể cả hạt nho và vỏ trái nho.
Numb VietNVB 6:5  Suốt thời gian thề nguyện biệt mình làm người Na-xi-rê, người không được cạo đầu. Trọn những ngày người biệt mình riêng cho CHÚA, làm người Na-xi-rê, tóc người cũng được biệt riêng ra thánh và người phải để cho tóc mình mọc dài, không được cắt tỉa.
Numb VietNVB 6:6  Suốt thời gian biệt mình riêng cho Chúa, không được đến gần xác chết.
Numb VietNVB 6:7  Đừng vì cha hay mẹ, vì anh em hoặc chị em qua đời mà bị ô uế vì dấu hiệu biệt riêng cho Chúa vẫn ở trên đầu mình.
Numb VietNVB 6:8  Suốt thời gian biệt riêng đó, người ấy được thánh hóa cho CHÚA.
Numb VietNVB 6:9  Nếu ai chết thình lình bên người Na-xi-rê làm cho đầu đã biệt ra thánh của người ấy trở nên ô uế, thì phải cạo đầu mình vào ngày được sạch, tức là ngày thứ bảy.
Numb VietNVB 6:10  Qua ngày thứ tám, người ấy phải đem hai chim gáy hoặc hai bồ câu con đến cho thầy tế lễ tại cửa Trại Hội Kiến.
Numb VietNVB 6:11  Thầy tế lễ sẽ dâng một con làm tế lễ chuộc tội và con kia làm tế lễ thiêu để chuộc tội người đã mắc vì xác chết. Ngày ấy, người sẽ biệt đầu mình ra thánh.
Numb VietNVB 6:12  Người ấy sẽ biệt mình ra thánh cho CHÚA suốt những ngày còn lại trong thời gian làm người Na-xi-rê, cũng phải đem một con chiên con đực một tuổi làm tế lễ chuộc sự mắc lỗi. Những ngày làm người Na-xi-rê đã qua không được kể nữa vì đã bị ô uế.
Numb VietNVB 6:13  Đây là luật lệ về người Na-xi-rê khi mãn hạn biệt riêng mình cho Chúa: Người ấy phải được đem đến cửa Trại Hội Kiến.
Numb VietNVB 6:14  Người ấy sẽ dâng các tế lễ lên CHÚA: một con chiên con đực một tuổi không tì vết làm tế lễ thiêu, một con chiên cái một tuổi không tì vết làm tế lễ chuộc tội và một con chiên đực không tì vết làm tế lễ cầu an;
Numb VietNVB 6:15  một giỏ bánh không men bằng bột lọc, các bánh nhỏ rưới dầu, các bánh tráng không men thoa dầu, luôn với lễ vật chay và lễ quán.
Numb VietNVB 6:16  Thầy tế lễ sẽ đem các lễ vật ấy đến trước mặt CHÚA và dâng tế lễ chuộc tội và tế lễ thiêu;
Numb VietNVB 6:17  dâng luôn con chiên đực làm tế lễ cầu an, cùng dâng tế lễ chay và lễ quán của người ấy, trừ ra giỏ bánh không men.
Numb VietNVB 6:18  Tại cửa Trại Hội Kiến, người Na-xi-rê phải cạo tóc trên đầu mình đã biệt riêng và lấy tóc bỏ vào ngọn lửa đang cháy dưới tế lễ cầu an.
Numb VietNVB 6:19  Sau khi cạo đầu, người Na-xi-rê sẽ được thầy tế lễ đặt trong lòng hai bàn tay cái vai đã luộc chín của con chiên đực, một cái bánh nhỏ không men lấy trong giỏ và một cái bánh tráng không men,
Numb VietNVB 6:20  rồi dâng đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA: đó là những vật thánh thuộc về thầy tế lễ cũng như cái ngực đã được đưa qua đưa lại và cái đùi đã được dâng lên. Sau đó người Na-xi-rê được uống rượu.
Numb VietNVB 6:21  Đó là luật lệ về người Na-xi-rê. Ngoài những lễ vật cần thiết kèm theo lời hứa nguyện làm người Na-xi-rê; nếu người có hứa nguyện dâng lên CHÚA những lễ vật nào tùy theo khả năng mình, người phải giữ đúng theo lời mình hứa nguyện.
Numb VietNVB 6:23  Con hãy bảo A-rôn và các con trai người: Đây là cách chúc phước cho dân Y-sơ-ra- ên:
Numb VietNVB 6:24  Cầu xin CHÚA ban phước cho ngươiVà bảo vệ ngươi!
Numb VietNVB 6:25  Cầu xin CHÚA làm cho mặt Ngài chiếu sáng ngươiVà làm ơn cho ngươi!
Numb VietNVB 6:26  Cầu xin CHÚA đoái xem ngươiVà ban bình an cho ngươi!
Numb VietNVB 6:27  Như thế, họ sẽ đặt danh Ta trên dân Y-sơ-ra-ên, thì Ta sẽ ban phước cho dân đó.
Chapter 7
Numb VietNVB 7:1  Dựng xong Đền Tạm, Môi-se xức dầu và biệt riêng ra thánh cả Đền Tạm lẫn tất cả đồ đạc trong ấy. Ông cũng xức dầu và biệt ra thánh bàn thờ và tất cả vật dụng của bàn thờ.
Numb VietNVB 7:2  Khi ấy các nhà lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên, các gia trưởng làm trưởng chi tộc đã đặc trách việc kiểm tra dân số, đều dâng lễ vật.
Numb VietNVB 7:3  Họ đem lễ vật mình đến trước mặt CHÚA chở trong sáu cỗ xe do mười hai bò đực kéo, mỗi trưởng chi tộc một con bò và hai trưởng chi tộc một cỗ xe. Họ dâng các lễ vật đó trước Đền Tạm.
Numb VietNVB 7:5  Con hãy thu các lễ vật của những người này để dùng vào công việc của Trại Hội Kiến. Con hãy giao các lễ vật ấy cho người Lê-vi tùy công tác của mỗi người.
Numb VietNVB 7:6  Vậy, Môi-se thu nhận các cỗ xe và bò đực rồi giao lại cho người Lê-vi:
Numb VietNVB 7:7  hai cỗ xe và bốn con bò cho dòng họ Ghẹt-sôn tùy công tác họ,
Numb VietNVB 7:8  bốn cỗ xe và tám con bò cho dòng họ Mê-ra-ri tùy theo công tác họ. Tất cả đều đặt dưới quyền chỉ huy của Y-tha-ma con trai thầy tế lễ A-rôn.
Numb VietNVB 7:9  Nhưng Môi-se không giao xe và bò cho dòng họ Kê-hát vì các vật dụng thánh họ chịu trách nhiệm phải được khuân vác trên vai.
Numb VietNVB 7:10  Khi bàn thờ được xức dầu, các nhà lãnh đạo đem lễ vật dâng lên trước bàn thờ để khánh thành.
Numb VietNVB 7:11  Vì CHÚA đã phán dạy Môi-se: Các nhà lãnh đạo phải mang đến lễ vật để khánh thành bàn thờ, mỗi ngày một người.
Numb VietNVB 7:12  Ngày thứ nhất, Na-ha-sôn con của A-mi-na-đáp, chi tộc Giu-đa, dâng lễ vật.
Numb VietNVB 7:13  Lễ vật người gồm có một chiếc đĩa bạc nặng 1.50kg và một cái bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh: cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay;
Numb VietNVB 7:14  một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu:
Numb VietNVB 7:15  một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu:
Numb VietNVB 7:16  một con dê đực làm tế lễ chuộc tội:
Numb VietNVB 7:17  hai con bò đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Na-ha-sôn, con của A-mi-na-đáp.
Numb VietNVB 7:18  Ngày thứ nhì, Na-tha-na-ên con của Xu-a, chi tộc Y-sa-ca, dâng lễ vật.
Numb VietNVB 7:19  Lễ vật người gồm có một chiếc đĩa bạc nặng 1.50kg và một cái bát nặng 0.80kg theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh: cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay,
Numb VietNVB 7:20  một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu;
Numb VietNVB 7:21  một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu;
Numb VietNVB 7:22  một con dê đực làm tế lễ chuộc tội;
Numb VietNVB 7:23  hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Na-tha-na-ên, con của Xu-a.
Numb VietNVB 7:24  Ngày thứ ba, Ê-li-áp con của Hê-long, chi tộc Sa-bu-luân, dâng lễ vật.
Numb VietNVB 7:25  Lễ vật người gồm có một chiếc đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay,
Numb VietNVB 7:26  một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu;
Numb VietNVB 7:27  một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu,
Numb VietNVB 7:28  một con dê đực làm tế lễ chuộc tội;
Numb VietNVB 7:29  hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ê-li-áp, con của Hê-long.
Numb VietNVB 7:30  Vào ngày thứ tư, Ê-li-sua con của Sê-đêu, chi tộc Ru-bên, dâng lễ vật.
Numb VietNVB 7:31  Lễ vật người gồm có một chiếc đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay,
Numb VietNVB 7:32  một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu;
Numb VietNVB 7:33  một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu,
Numb VietNVB 7:34  một con dê đực làm tế lễ chuộc tội;
Numb VietNVB 7:35  hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi để làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ê-li-sua, con của Sê-đêu.
Numb VietNVB 7:36  Ngày thứ năm, Sê-lu-miên con của Xu-ri-ha-đai, chi tộc Si-mê-ôn, dâng lễ vật.
Numb VietNVB 7:37  Lễ vật người gồm có một đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay,
Numb VietNVB 7:38  một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu;
Numb VietNVB 7:39  một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu,
Numb VietNVB 7:40  một con dê đực làm tế lễ chuộc tội;
Numb VietNVB 7:41  hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Sê-lu-miên, con của Xu-ri-ha-đai.
Numb VietNVB 7:42  Ngày thứ sáu, Ê-li-a-sáp con của Đê-u-ên, chi tộc Gát, dâng lễ vật.
Numb VietNVB 7:43  Lễ vật người gồm có một đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay,
Numb VietNVB 7:44  một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu;
Numb VietNVB 7:45  một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu,
Numb VietNVB 7:46  một con dê đực làm tế lễ chuộc tội;
Numb VietNVB 7:47  hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ê-li-a-sáp, con của Đê-u-ên.
Numb VietNVB 7:48  Ngày thứ bảy, Ê-li-sa-ma con của A-mi-hút, chi tộc Ép-ra-im dâng lễ vật.
Numb VietNVB 7:49  Lễ vật người gồm có một đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay,
Numb VietNVB 7:50  một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu;
Numb VietNVB 7:51  một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu,
Numb VietNVB 7:52  một con dê đực làm tế lễ chuộc tội;
Numb VietNVB 7:53  hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ê-li-sa-ma, con của A-mi-hút.
Numb VietNVB 7:54  Ngày thứ tám, Ga-ma-liên con của Phê-đát-su, chi tộc Ma-na-se, dâng lễ vật.
Numb VietNVB 7:55  Lễ vật người gồm có một đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay,
Numb VietNVB 7:56  một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu;
Numb VietNVB 7:57  một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu,
Numb VietNVB 7:58  một con dê đực làm tế lễ chuộc tội;
Numb VietNVB 7:59  hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ga-ma-liên, con của Phê-đát-su.
Numb VietNVB 7:60  Ngày thứ chín, A-bi-đan con của Ghi-đeo-ni, chi tộc Bên-gia-min, dâng lễ vật.
Numb VietNVB 7:61  Lễ vật người gồm có một đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay,
Numb VietNVB 7:62  một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu;
Numb VietNVB 7:63  một con bò đực tơ, môt con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu,
Numb VietNVB 7:64  một con dê đực làm tế lễ chuộc tội;
Numb VietNVB 7:65  hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lể vật của A-bi-đan, con của Ghi-đeo-ni.
Numb VietNVB 7:66  Ngày thứ mười, A-hi-ê-xe con của Am-mi-sa-đai, chi tộc Đan, dâng lễ vật.
Numb VietNVB 7:67  Lễ vật người gồm có một đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay,
Numb VietNVB 7:68  một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu;
Numb VietNVB 7:69  một con bò đực tơ, môt con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu,
Numb VietNVB 7:70  một con dê đực làm tế lễ chuộc tội;
Numb VietNVB 7:71  hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lể vật của A-hi-ê-xe, con của Am-mi-sa-đai.
Numb VietNVB 7:72  Ngày thứ mười một, Pha-ghi-ên con của Óc-ran, chi tộc A-se, dâng lễ vật.
Numb VietNVB 7:73  Lễ vật người gồm có một đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay,
Numb VietNVB 7:74  một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu;
Numb VietNVB 7:75  một con bò đực tơ, môt con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu,
Numb VietNVB 7:76  một con dê đực làm tế lễ chuộc tội;
Numb VietNVB 7:77  hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Pha-ghi-ên, con của Óc-ran.
Numb VietNVB 7:78  Ngày thứ mười hai, A-hi-ra con của Ê-nan, chi tộc Nép-ta-li, dâng lễ vật.
Numb VietNVB 7:79  Lễ vật người gồm có một đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay,
Numb VietNVB 7:80  một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu;
Numb VietNVB 7:81  một con bò đực tơ, môt con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu,
Numb VietNVB 7:82  một con dê đực làm tế lễ chuộc tội;
Numb VietNVB 7:83  hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của A-hi-ra, con của Ê-nan.
Numb VietNVB 7:84  Đó là các lễ vật của các trưởng chi tộc dân Y-sơ-ra-ên dâng hiến trong lễ khánh thành bàn thờ, khi bàn thờ được xức dầu: mười hai đĩa bạc, mười hai chậu bạc, mười hai chén vàng;
Numb VietNVB 7:85  mỗi đĩa bạc nặng 1.50kg và mỗi bát nặng 0.80kg. Tổng cộng đĩa và bát được 28kg bạc, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh;
Numb VietNVB 7:86  mười hai chén vàng đựng đầy hương liệu, mỗi cái cân nặng 110gm, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; tổng cộng được 1.40kg vàng.
Numb VietNVB 7:87  Số bò đực dâng làm tế lễ thiêu được mười hai con, với mười hai con chiên đực, mười hai con chiên con đực một tuổi, cùng các lễ vật chay cặp theo. Ngoài ra, mười hai con dê đực được dâng làm tế lễ chuộc tội.
Numb VietNVB 7:88  Tổng số sinh tế dâng làm tế lễ cầu an được hai mươi bốn con bò đực, sáu mươi con cừu đực, sáu mươi con dê đực và sáu mươi con chiên con đực một tuổi. Đó là các lễ vật dâng lên để khánh thành bàn thờ sau khi bàn thờ được xức dầu.
Numb VietNVB 7:89  Khi vào Trại Hội Kiến để thưa chuyện với CHÚA, Môi-se được nghe tiếng phán với mình phát ra giữa hai chê-ru-bim trên Nắp Chuộc Tội đặt trên Rương Giao Ước. Và như thế, CHÚA trò chuyện với Môi-se.
Chapter 8
Numb VietNVB 8:2  Con hãy bảo A-rôn: Khi nào anh sắp đặt các cây đèn, phải để bảy cây đèn chiếu soi phía trước chân đèn.
Numb VietNVB 8:3  A-rôn vâng theo, đặt bảy cây đèn lên phía trước chân đèn y như CHÚA đã phán dạy Môi-se.
Numb VietNVB 8:4  Chân đèn đã được chế tạo bằng vàng dát mỏng, cả đến chân và các hoa cũng đều đánh dát. Như thế, người ta làm chân đèn đúng theo kiểu CHÚA đã chỉ cho Môi-se xem.
Numb VietNVB 8:6  Con hãy phân rẽ người Lê-vi với toàn dân Y-sơ-ra-ên và thanh tẩy họ.
Numb VietNVB 8:7  Đây là cách thanh tẩy họ: Con hãy rảy nước tẩy trên họ rồi cho họ cạo khắp người, giặt áo xống và dọn mình thanh sạch.
Numb VietNVB 8:8  Họ phải đem theo một con bò đực với lễ vật chay bằng bột lọc nhồi dầu. Còn con cũng phải bắt một con bò đực tơ để dâng tế lễ chuộc tội.
Numb VietNVB 8:9  Con hãy bảo người Lê-vi đến gần trước Trại Hội Kiến và tụ họp toàn dân Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 8:10  Con phải bảo người Lê-vi đến gần trước mặt CHÚA rồi cho dân Y-sơ-ra-ên đặt tay trên người Lê-vi.
Numb VietNVB 8:11  A-rôn phải dâng người Lê-vi lên trước mặt CHÚA như một tế lễ đưa qua đưa lại từ dân Y-sơ-ra-ên, ngõ hầu người Lê-vi sẵn sàng phục vụ CHÚA.
Numb VietNVB 8:12  Người Lê-vi sẽ đặt tay trên đầu hai con bò đực. Con hãy dâng con bò này làm tế lễ chuộc tội và con kia làm tế lễ thiêu cho CHÚA để chuộc tội cho người Lê-vi.
Numb VietNVB 8:13  Con hãy bảo người Lê-vi đứng trước mặt A-rôn và các con trai người, rồi dâng họ như một tế lễ đưa qua đưa lại cho CHÚA.
Numb VietNVB 8:14  Như thế, con sẽ biệt riêng người Lê-vi ra khỏi Y-sơ-ra-ên, thì người Lê-vi sẽ thuộc về Ta.
Numb VietNVB 8:15  Sau khi con thanh tẩy họ và dâng họ lên như tế lễ đưa qua đưa lại, người Lê-vi sẽ đến làm công việc tại Trại Hội Kiến.
Numb VietNVB 8:16  Người Lê-vi phải dâng mình trọn vẹn cho Ta từ giữa dân Y-sơ-ra-ên. Ta đã chọn họ để họ thuộc về Ta thay thế cho các con đầu lòng cả người lẫn gia súc trong dân Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 8:17  Tất cả các trưởng nam trong Y-sơ-ra-ên và các con đầu lòng trong bầy gia súc đều thuộc về Ta. Ta đã biệt riêng chúng cho Ta khi Ta đánh hạ tất cả các con đầu lòng tại Ai-cập.
Numb VietNVB 8:18  Và Ta đã chọn người Lê-vi thay thế tất cả con đầu lòng Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 8:19  Trong toàn dân Y-sơ-ra-ên, Ta đã ban người Lê-vi như một tặng phẩm cho A-rôn và các con trai người để làm công việc tại Trại Hội Kiến thay cho dân Y-sơ-ra-ên, cùng chuộc tội cho toàn dân ngõ hầu dân Y-sơ-ra-ên không bị tai họa gì khi họ đến gần Nơi Thánh.
Numb VietNVB 8:20  Môi-se, A-rôn và toàn dân Y-sơ-ra-ên làm cho người Lê-vi đúng theo mọi điều CHÚA đã phán dặn Môi-se.
Numb VietNVB 8:21  Người Lê-vi dọn mình thanh sạch và giặt áo xống mình, rồi A-rôn dâng họ như tế lễ đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA và làm tế lễ chuộc tội để thanh tẩy họ.
Numb VietNVB 8:22  Sau đó người Lê-vi đến làm công việc trong Trại Hội Kiến trước mặt A-rôn và các con trai người, theo sự phân công. Người ta làm cho người Lê-vi mọi điều CHÚA đã phán dặn Môi-se.
Numb VietNVB 8:24  Đây là luật lệ áp dụng cho người Lê-vi: Mỗi người nam từ hai mươi lăm tuổi trở lên phải đến dự phần phục vụ tại Trại Hội Kiến.
Numb VietNVB 8:25  Đến tuổi năm mươi họ phải về hưu, không phải làm việc nữa.
Numb VietNVB 8:26  Đến tuổi đó, họ có thể phụ giúp anh em mình trong các dịch vụ tại Trại Hội Kiến, nhưng chính họ không được làm việc. Con phải áp dụng luật lệ này khi phân công cho người Lê-vi.
Chapter 9
Numb VietNVB 9:1  CHÚA phán bảo Môi-se trong sa mạc Si-nai vào tháng giêng năm thứ nhì sau khi rời khỏi Ai-cập:
Numb VietNVB 9:2  Con phải cho dân Y-sơ-ra-ên cử hành lễ Vượt Qua vào thời gian ấn định.
Numb VietNVB 9:3  Con hãy giữ lể ấy đúng thời gian ấn định, vào lúc chạng vạng tối ngày mười bốn tháng này đúng theo mọi qui luật và sắc lệnh.
Numb VietNVB 9:4  Vậy Môi-se bảo dân Y-sơ-ra-ên cử hành lễ Vượt Qua:
Numb VietNVB 9:5  họ giữ lễ ấy trong sa mạc lúc chạng vạng ngày mười bốn tháng giêng đúng theo mọi điều Chúa đã truyền lệnh cho Môi-se
Numb VietNVB 9:6  nhưng hôm ấy, có mấy người bị ô uế vì đến gần xác chết nên không giữ lễ Vượt Qua được. Vậy họ đến cùng Môi-se và A-rôn ngay hôm ấy
Numb VietNVB 9:7  và thưa với Môi-se: Chúng tôi bị ô uế vì xác chết của loài người. Vì sao giữa dân Y-sơ-ra-ên chúng tôi phải mất phần dâng tế lễ cho CHÚA theo thời gian ấn định?
Numb VietNVB 9:8  Môi-se đáp: Anh em hãy đợi tôi đến tìm biết điều CHÚA truyền dạy về anh em.
Numb VietNVB 9:10  Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Khi một người trong vòng các ngươi hoặc trong dòng dõi các ngươi bị ô uế vì xác chết hoặc bận đi xa, thì cũng buộc phải giữ lễ cho CHÚA.
Numb VietNVB 9:11  Những người ấy phải giữ lễ này ngày mười bốn tháng hai lúc chạng vạng, ăn bánh không men với rau đắng.
Numb VietNVB 9:12  Đừng để vật gì còn lại đến sáng mai, cũng không nên bẻ gãy các xương. Phải giữ đúng mọi luật lệ về lễ Vượt Qua.
Numb VietNVB 9:13  Nhưng những ai tinh sạch và không đi xa mà chẳng giữ lễ Vượt Qua thì sẽ bị khai trừ ra khỏi nhân dân, vì chẳng dâng tế lễ cho CHÚA trong kỳ ấn định; người ấy sẽ mang tội mình.
Numb VietNVB 9:14  Khi một người nước ngoài kiều ngụ giữa các ngươi muốn cử hành lễ Vượt Qua, thì phải giữ đúng các qui luật và sắc lệnh. Các ngươi phải áp dụng qui luật cho người nước ngoài cũng như cho người bản xứ.
Numb VietNVB 9:15  Trong ngày Đền Tạm, Trại Chứng Cớ được dựng lên, có đám mây bao phủ nó. Từ tối đến sáng, đám mây bên trên Đền Tạm giống như đám lửa.
Numb VietNVB 9:16  Lúc nào cũng vậy, ban ngày đám mây bao phủ Đền Tạm, còn ban đêm giống như đám lửa.
Numb VietNVB 9:17  Một khi trụ mây cất lên khỏi Đền Tạm, dân Y-sơ-ra-ên ra đi; một khi trụ mây dừng lại, dân Y-sơ-ra-ên cắm trại.
Numb VietNVB 9:18  Theo lệnh của CHÚA, dân Y-sơ-ra-ên cắm trại; cũng theo lệnh của Ngài, họ ra đi. Bao lâu trụ mây ở trên Đền Tạm thì dân Y-sơ-ra-ên cứ ở trong trại mình.
Numb VietNVB 9:19  Khi trụ mây cứ ở trên Đền Tạm một thời gian dài, dân Y-sơ-ra-ên cũng vâng lệnh CHÚA và không ra đi.
Numb VietNVB 9:20  Đôi khi trụ mây dừng trên Đền Tạm chỉ một vài ngày; theo lệnh của CHÚA, nhân dân cắm trại. Và sau đó, theo lệnh của Ngài, họ lại ra đi.
Numb VietNVB 9:21  Đôi khi trụ mây chỉ dừng lại từ tối đến sáng; khi trụ mây cất lên buổi sáng, họ ra đi. Bất luận ban ngày hay ban đêm, mỗi khi trụ mây cất lên, nhân dân ra đi.
Numb VietNVB 9:22  Khi trụ mây dừng trên Đền Tạm hai ngày hoặc một tháng hay một năm, dân Y-sơ-ra-ên cứ ở lại trong trại mà không ra đi nhưng khi trụ mây cất lên họ ra đi.
Numb VietNVB 9:23  Theo lệnh của CHÚA, họ cắm trại: cũng theo lệnh Ngài, họ ra đi. Họ tuân lệnh CHÚA, đúng theo mệnh lệnh Chúa truyền qua Môi-se.
Chapter 10
Numb VietNVB 10:2  Con hãy làm hai cái loa bằng bạc đánh dát, để dùng triệu tập nhân dân nhóm họp và để truyền lệnh nhổ trại ra đi.
Numb VietNVB 10:3  Khi thổi cả hai loa, toàn dân sẽ tập họp trước mặt con tại cửa Trại Hội Kiến.
Numb VietNVB 10:4  Nếu có một loa thổi lên thì các nhà lãnh đạo tức các trưởng chi tộc Y-sơ-ra-ên sẽ họp trước mặt con.
Numb VietNVB 10:5  Khi có tiếng loa thổi vang thì các trại quân phía đông phải ra đi.
Numb VietNVB 10:6  Khi nghe thổi tiếng vang lần thứ nhì thì các trại quân phía nam phải ra đi; khi nào muốn các trại quân ra đi thì phải thổi loa vang.
Numb VietNVB 10:7  Khi triệu tập nhân dân cũng dùng loa thổi nhưng đừng thổi tiếng vang.
Numb VietNVB 10:8  Các con trai A-rôn, tức các thầy tế lễ, sẽ thổi các loa ấy. Đó là một lệ định đời đời cho các người từ đời nầy qua đời kia.
Numb VietNVB 10:9  Khi các ngươi xuất quân ra trận từ quê hương đất nước chống trả địch quân đang áp bức mình thì phải thổi loa vang. Khi ấy, CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi sẽ nhớ lại ngươi và giải cứu ngươi khỏi quân thù nghịch.
Numb VietNVB 10:10  Khi con gặp lúc hân hoan như các lễ định kỳ, lễ trăng mới thì phải thổi loa khi dâng tế lễ thiêu và tế lễ cầu an. Loa sẽ được dùng làm kỷ niệm trước mặt Đức Chúa Trời. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi.
Numb VietNVB 10:11  Ngày hai mươi mốt tháng hai năm thứ nhì, trụ mây cất lên khỏi Đền Tạm Chứng Cớ.
Numb VietNVB 10:12  Dân Y-sơ-ra-ên nhổ trại, khởi đầu cuộc hành trình từ sa mạc Si-nai và trụ mây dừng lại trong sa mạc Pha-ran.
Numb VietNVB 10:13  Đây là lần đầu họ ra đi theo lệnh CHÚA truyền cho Môi-se.
Numb VietNVB 10:14  Ngọn cờ của trại quân Giu-đa đi trước, kéo đi từng đơn vị. Na-ha-sôn, con A-mi-na-đáp, chỉ huy quân đội Giu-đa.
Numb VietNVB 10:15  Na-tha-na-ên, con Xu-a, chỉ huy các đơn vị quân đội Y-sa-ca.
Numb VietNVB 10:16  Ê-li-áp, con Hê-long, chỉ huy các đơn vị quân đội Sa-bu-luân.
Numb VietNVB 10:17  Lúc ấy Đền Tạm được dỡ xuống, dòng họ Ghẹt-sôn và dòng họ Mê-ra-ri khuân vác Đền Tạm ra đi.
Numb VietNVB 10:18  Kế đến là các đơn vị quân đội của Ru-bên ra đi dưới ngọn cờ mình. Ê-lít-su, con Sê-đêu, chỉ huy quân đội Ru-bên.
Numb VietNVB 10:19  Sê-lu-miên, con Xu-ri-ha-đai, chỉ huy các đơn vị quân đội Si-mê-ôn.
Numb VietNVB 10:20  Ê-li-a-sáp, con Đê-u-ên, chỉ huy các đơn vị quân đội Gát.
Numb VietNVB 10:21  Lúc ấy người Kê-hát ra đi, khuân vác các vật thánh. Đền Tạm phải được dựng lên xong xuôi trước khi họ đến nơi.
Numb VietNVB 10:22  Kế đó, các đơn vị quân đội Ép-ra-im ra đi dưới ngọn cờ mình. Ê-li-ma-sa, con A-mi-hút, chỉ huy quân đội Ép-ra-im.
Numb VietNVB 10:23  Ga-ma-liên, con Phê-đát-su, chỉ huy các đơn vị quân đội Ma-na-se.
Numb VietNVB 10:24  A-bi-đan, con Ghi-đeo-ni, chỉ huy các đơn vị quân đội Bên-gia-min.
Numb VietNVB 10:25  Sau hết, đi hậu tập là các đơn vị quân đội Đan: họ ra đi dưới ngọn cờ mình. A-hi-ê-xe, con Am-mi-sa-đai, chỉ huy quân đội Đan.
Numb VietNVB 10:26  Pha-ghi-ên, con Óc-ran, chỉ huy các đơn vị quân đội A-se.
Numb VietNVB 10:27  A-hi-ra, con Ê-nan, chỉ huy các đơn vị quân đội Nép-ta-li.
Numb VietNVB 10:28  Đó là thứ tự hành quân của các đội quân Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 10:29  Môi-se bảo Hô-bát, con Rê-u-ên người Ma-đi-an, tức anh vợ mình: Chúng tôi đang đi đến xứ mà CHÚA đã phán hứa: Ta sẽ ban xứ ấy cho các ngươi. Anh hãy đi với chúng tôi thì chúng tôi sẽ biệt đãi anh vì CHÚA đã hứa những điều tốt lành cho dân Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 10:30  Người ấy đáp: Không, tôi không đi đâu. Tôi sẽ về quê hương đất nước tôi với dân tộc tôi.
Numb VietNVB 10:31  Nhưng Môi-se yêu cầu: Xin anh đừng lìa bỏ chúng tôi. Anh biết nơi nào chúng tôi phải cắm trại giữa sa mạc nên anh là con mắt của chúng tôi.
Numb VietNVB 10:32  Chúng tôi sẽ chia với anh những điều tốt lành CHÚA ban cho chúng tôi.
Numb VietNVB 10:33  Vậy, họ từ núi của CHÚA ra đi suốt ba ngày. Rương Giao Ước của CHÚA đi trước họ trong ba ngày đó để tìm cho họ một nơi an nghỉ.
Numb VietNVB 10:34  Khi họ dời trại ra đi, trụ mây của CHÚA ở trên họ ban ngày.
Numb VietNVB 10:35  Mỗi khi Rương Giao Ước ra đi, Môi-se nói:Lạy CHÚA, xin hãy chổi dậy!Nguyện quân thù Chúa bị đánh tan;Nguyện bọn cừu địch chạy trốn trước mặt Ngài.
Numb VietNVB 10:36  Mỗi khi Rương Giao Ước dừng lại, Môi-se lại cầu nguyện:Lạy CHÚA, xin Ngài hãy trở lại,Cùng muôn ngàn dân Y-sơ-ra-ên!
Chapter 11
Numb VietNVB 11:1  Bấy giờ, dân sự phàn nàn về những cảnh gian khổ khó khăn. CHÚA nghe liền nỗi thạnh nộ; CHÚA cho ngọn lửa cháy lên giữa vòng dân sự thiêu đốt nơi đầu cùng trại quân.
Numb VietNVB 11:2  Dân sự kêu cứu Môi-se; Môi-se cầu nguyện cùng CHÚA thì lửa ngưng cháy.
Numb VietNVB 11:3  Địa điểm này được gọi là Tha-bê-ra vì ngọn lửa của CHÚA đã thiêu đốt giữa dân sự.
Numb VietNVB 11:4  Lúc ấy, bọn tạp dân giữa vòng dân sự nổi lòng tham muốn khiến dân Y-sơ-ra-ên lại khóc nữa và nói: Ước gì chúng ta được ăn thịt!
Numb VietNVB 11:5  Chúng ta nhớ những con cá ăn miễn phí tại Ai-cập, những trái dưa chuột, dưa gang, củ kiệu, hành và tỏi:
Numb VietNVB 11:6  nhưng bây giờ sức mạnh của chúng ta bị khô héo, vì chẳng có chi hết, chỉ thấy ma-na mà thôi!
Numb VietNVB 11:7  Ma-na có hình thể như hạt ngò, mầu sắc như nhựa thơm của một loài cây.
Numb VietNVB 11:8  Dân sự đi tản ra lượm lấy đem về xay trong cối xay hoặc giã bằng cối giã, nấu trong nồi và làm bánh có vị giống như bánh pha dầu.
Numb VietNVB 11:9  Khi sương mù bao phủ trại quân ban đêm thì ma-na cũng rơi xuống.
Numb VietNVB 11:10  Môi-se nghe tiếng dân sự khóc than trong gia đình của họ, mỗi người tại cửa trại mình. Cơn thịnh nộ của CHÚA nổi phừng lên, còn Môi-se thì khổ sở.
Numb VietNVB 11:11  Môi-se thưa với CHÚA: Tại sao Chúa bạc đãi đầy tớ Chúa như thế? Tại sao con không được ơn dưới mắt Chúa, đến nỗi Chúa đặt gánh nặng của cả dân tộc này trên con?
Numb VietNVB 11:12  Con có thụ thai dân tộc này đâu? Con đâu có nuôi dưỡng họ mà Chúa lại bảo con: con hãy cưu mang dân tộc này trong lòng như người vú ẵm bồng đứa trẻ đang bú, cho đến khi vào xứ Chúa đã thề hứa ban cho tổ phụ họ.
Numb VietNVB 11:13  Con tìm đâu ra thịt cho cả dân tộc này? Vì họ khóc trước mặt con mà đòi hỏi: xin cho chúng tôi ăn thịt.
Numb VietNVB 11:14  Một mình con không đủ khả năng gánh cả dân tộc này, vì gánh nặng quá sức con chịu.
Numb VietNVB 11:15  Nếu Chúa đãi con như thế thà cho con chết ngay bây giờ đi, nếu con được ơn dưới mắt Chúa, chứ đừng để con thấy sự tàn hại.
Numb VietNVB 11:16  CHÚA phán bảo Môi-se: Con hãy tập họp cho Ta bảy mươi trưởng lão Y-sơ-ra-ên mà con biết là những người lãnh đạo và quan chức trong dân sự. Hãy dẫn họ đến Trại Hội Kiến, cho họ đứng tại đó với con.
Numb VietNVB 11:17  Ta sẽ ngự xuống, trò chuyện với con tại đó. Ta sẽ lấy Thần Ta ở trong con và đặt Thần Ta trong họ, để họ chia gánh nặng về dân tộc này với con và con không phải gánh một mình.
Numb VietNVB 11:18  Con hãy truyền bảo nhân dân: Ngày mai, các ngươi phải dọn mình thánh sạch thì các người sẽ được ăn thịt. Vì tai CHÚA có nghe các ngươi khóc than rằng: Ai sẽ cho chúng ta ăn thịt? Vì chúng ta đã sống sung túc tại Ai-cập. Vậy nên CHÚA sẽ ban cho các ngươi thịt để ăn.
Numb VietNVB 11:19  Các ngươi sẽ được ăn không phải chỉ một ngày, hai ngày, năm ngày, mười ngày hay hai mươi ngày đâu,
Numb VietNVB 11:20  nhưng được ăn cả một tháng, cho đến khi nào thịt tràn ra lỗ mũi và các ngươi chán ngán vì các ngươi đã lìa bỏ CHÚA đang ngự giữa các ngươi và khóc than trước mặt Ngài rằng: Tại sao chúng ta lại rời bỏ Ai-cập?
Numb VietNVB 11:21  Nhưng Môi-se thưa: Đoàn dân bao quanh con đây có ít nhất là sáu trăm ngàn người đàn ông, mà Chúa lại bảo: Ta sẽ cho chúng ăn thịt suốt một tháng!
Numb VietNVB 11:22  Dù giết cả đàn bò và cừu thì cũng không đủ cho họ ăn? Dù bắt hết cá dưới biển thì cũng không đủ.
Numb VietNVB 11:23  CHÚA đáp lời Môi-se: Quyền năng Ta có bị giới hạn không? Con sẽ thấy lời Ta có được ứng nghiệm hay không.
Numb VietNVB 11:24  Vậy Môi-se đi ra bảo nhân dân những lời CHÚA đã phán. Ông tập họp bảy mươi trưởng lão của nhân dân và đặt họ xung quanh trại.
Numb VietNVB 11:25  CHÚA ngự xuống trong đám mây và phán dạy Môi-se. Ngài lấy một phần Thần Ngài đang ngự trong ông và đặt trong bảy mươi trưởng lão. Khi Thần Chúa ngự trên họ, các trưởng lão liền nói tiên tri, nhưng không cứ nói mãi.
Numb VietNVB 11:26  Có hai người, một người tên Ên-đát, người kia tên Mê-đát, có tên trong danh sách bảy mươi trưởng lão nhưng ở lại trong trại quân, không ra đến trại Hội Kiến. Tuy vậy Thần Chúa ngự trên họ và họ nói tiên tri trong trại quân.
Numb VietNVB 11:27  Một thanh niên chạy đi báo cáo cho Môi-se: Ên-đát và Mê-đát đang nói tiên tri trong trại quân.
Numb VietNVB 11:28  Giô-suê con trai Nun, phụ tá của Môi-se, và là một trong các người Môi-se đã chọn, yêu cầu: Thưa Chủ tướng Môi-se, xin ngăn cấm họ.
Numb VietNVB 11:29  Nhưng Môi-se đáp: Liệu con ganh tị thế cho ta sao? Ước gì tất cả dân Chúa đều là tiên tri! Và ước gì CHÚA đặt Thần Ngài trong họ!
Numb VietNVB 11:30  Môi-se và trưởng lão Y-sơ-ra-ên quay về trại quân.
Numb VietNVB 11:31  CHÚA cho một ngọn gió thổi từ biển cả, mang chim cút đến, rải ra tràn khắp chung quanh trại quân, trên một khoảng cách độ chừng một ngày đi bộ, và một lớp khoảng một thước.
Numb VietNVB 11:32  Dân sự đứng dậy lượm chim cút suốt ngày và đêm hôm đó cùng trọn ngày hôm sau, mỗi người đều lượm thịt, người ít nhất cũng lượm được cả ngàn lít. Người ta căng chim cút ra phơi khắp chung quanh trại quân.
Numb VietNVB 11:33  Nhưng khi ăn, thịt chim mới vào đến răng, chưa kịp nhai thì CHÚA nổi thịnh nộ hình phạt dân sự bằng một tai ách rất nặng.
Numb VietNVB 11:34  Địa điểm này được gọi là Kíp-rốt Ha-tha-va, vì là nơi chôn xác của những người tham ăn.
Numb VietNVB 11:35  Từ Kíp-rốt Ha-tha-na dân Y-sơ-ra-ên đi qua Hát-sê-rốt và dừng chân tại đây.
Chapter 12
Numb VietNVB 12:1  Mi-ri-am và A-rôn nói hành Môi-se vì người vợ quê ở xứ Cút mà Môi-se đã cưới, vì Môi-se đã cưới bà này làm vợ.
Numb VietNVB 12:2  Hai người nói: Không lẽ CHÚA chỉ phán dạy qua một mình Môi-se mà thôi sao? Ngài không dùng chúng ta mà phán dạy sao? CHÚA nghe lời đó.
Numb VietNVB 12:3  Môi-se là một người rất khiêm tốn, khiêm tốn nhất trần gian.
Numb VietNVB 12:4  Lập tức CHÚA bảo Môi-se, A-rôn và Mi-ri-am: Cả ba hãy ra Trại Hội Kiến. Ba người đều đi.
Numb VietNVB 12:5  CHÚA ngự xuống trong trụ mây và đứng tại cửa Trại Hội Kiến, rồi gọi A-rôn và Mi-ri-am đến. Hai người đều bước tới.
Numb VietNVB 12:6  Chúa phán: Hãy lắng nghe lời Ta:Khi một nhà tiên tri xuất hiện giữa các ngươi,Ta bầy tỏ chính mình Ta cho người ấy trong khải tượng.Ta phán dạy người trong giấc mộng.
Numb VietNVB 12:7  Nhưng trường hợp Môi-se đầy tớ Ta không giống như vậy, người thật trung tín trong cả nhà Ta.
Numb VietNVB 12:8  Ta trò chuyện với người đối mặtCách rõ ràng, không dùng lời bí ẩn,Và người thấy hình dạng CHÚA.Vậy, sao các ngươi không sợ nói hành đầy tớ Ta là Môi-se?
Numb VietNVB 12:9  Cơn thịnh nộ của CHÚA nổi phừng với A-rôn và Mi-ri-am và Ngài bỏ họ ngự đi.
Numb VietNVB 12:10  Khi trụ mây cất lên khỏi trại thì Mi-ri-am bị phung trắng như tuyết. A-rôn quay lại nhìn Mi-ri-am, thấy bà đã mắc bệnh phung.
Numb VietNVB 12:11  A-rôn nói với Môi-se: Chủ tôi ơi, xin đừng chấp lỗi chúng tôi đã phạm cách điên dại,
Numb VietNVB 12:12  xin đừng để chị trong tình trạng như đứa con sảo thai, thịt bị ăn hết một nửa khi ra khỏi lòng mẹ.
Numb VietNVB 12:13  Môi-se kêu cầu Chúa: Lạy Đức Chúa Trời, xin Ngài chữa lành cho chị!
Numb VietNVB 12:14  CHÚA đáp lời Môi-se: Nếu bị cha mình nhổ trên mặt thì nó không bị hổ thẹn bảy ngày sao? Hãy cầm giữ nàng ngoài trại quân bảy ngày, sau đó nàng sẽ lại được đem vào.
Numb VietNVB 12:15  Vậy, Mi-ri-am bị cầm giữ bên ngoài trại quân bảy ngày. Nhân dân không ra đi cho đến ngày nàng được đem về trại quân.
Numb VietNVB 12:16  Sau đó, nhân dân rời Hát-sê-rốt ra đi và cắm trại tại sa mạc Pha-ran.
Chapter 13
Numb VietNVB 13:2  Con hãy sai một số người đi trinh sát đất nước Ca-na-an mà Ta đang ban cho dân Y-sơ-ra-ên. Mỗi chi tộc phải cử đi một người lãnh đạo.
Numb VietNVB 13:3  Vậy, từ sa mạc Pha-ran, Môi-se cử họ ra đi, theo lệnh CHÚA. Tất cả đều là những người lãnh đạo của dân Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 13:4  Đây là danh sách của họ:Chi tộc Ru-bên: Sam-mua, con trai Xa-cu.
Numb VietNVB 13:5  Chi tộc Si-mê-ôn: Sa-phát, con trai Hô-ri.
Numb VietNVB 13:6  Chi tộc Giu-đa: Ca-lép, con trai Giê-phu-nê.
Numb VietNVB 13:9  Chi tộc Bên-gia-min: Phanh-ti, con trai Ra-phu.
Numb VietNVB 13:10  Chi tộc Sa-bu-luân: Gát-đi-ên, con trai Sô-đi.
Numb VietNVB 13:14  Chi tộc Nép-ta-li: Nách-bi, con trai Vấp-si.
Numb VietNVB 13:16  Đó là tên những người Môi-se sai đi trinh sát xứ ấy Môi-se đổi tên Hô-sê, con trai Nun thành Giô-suê.
Numb VietNVB 13:17  Khi Môi-se sai họ đi trinh sát xứ Ca-na-an, ông bảo: Các ngươi hãy đi suốt xứ Nê-ghép đến tận vùng đồi núi,
Numb VietNVB 13:18  xem thử đất đai như thế nào, nhân dân xứ ấy mạnh hay yếu, ít hay nhiều,
Numb VietNVB 13:19  đất đai họ sinh sống ra làm sao? Tốt hay xấu? Các thành họ cư trú thuộc loại nào? Không có tường thành bao bọc hay có tường lũy kiên cố?
Numb VietNVB 13:20  Đất như thế nào? Phì nhiêu hay cằn cỗi? Có cây lớn trên đất hay không? Các ngươi hãy cố gắng mang về một ít trái cây của đất đó. Lúc ấy đang độ nho chín đầu mùa.
Numb VietNVB 13:21  Vậy, họ đi lên trinh sát đất đai từ sa mạc Xin cho đến tận Rê-hốp, về hướng Lê-bô Ha-mát.
Numb VietNVB 13:22  Họ đi lên qua xứ Nê-ghép và đến Hếp-rôn, là nơi sinh sống của A-hi-man. Sê-sai và Thanh-mai, dòng dõi của A-nác. Thành Hếp-rôn được xây cất bảy năm trước thành Xô-an bên Ai-cập.
Numb VietNVB 13:23  Đến trũng Ếch-côn, họ cắt một nhánh cây nho có một cành nho, phải hai người lấy sào khiêng mới nổi; ngoài ra còn một số thạch lựu và trái vả.
Numb VietNVB 13:24  Địa điểm này được gọi là trũng Ếch-côn, vì dân Y-sơ-ra-ên đã cắt chùm nho ở đó.
Numb VietNVB 13:25  Sau khi trinh sát xứ ấy bốn mươi ngày, họ quay về.
Numb VietNVB 13:26  Họ quay về với Môi-se, A-rôn và toàn thể nhân dân Y-sơ-ra-ên trong sa mạc Pha-ran. Các thám tử báo cáo cho họ và toàn thể nhân dân Y-sơ-ra-ên và cho xem hoa quả trong xứ.
Numb VietNVB 13:27  Họ báo cáo với Môi-se: Chúng tôi đã vào đất ấy như ông sai bảo chúng tôi; thật là đất tràn đầy sữa và mật. Đây là hoa quả xứ ấy.
Numb VietNVB 13:28  Tuy nhiên, cư dân xứ này thật mạnh mẽ; các thành họ rất lớn và có lũy bao bọc. Chúng tôi thấy dòng dõi của A-nác tại đó nữa.
Numb VietNVB 13:29  Người A-ma-léc ở trong xứ Nê-ghép, người Hê-tít, Giê-bu-sít và A-mô-rít ở trên vùng đồi núi; còn người Ca-na-an sống gần biển và dọc sông Giô-đanh.
Numb VietNVB 13:30  Lúc ấy, Ca-lép khuyến khích nhân dân trước mặt Môi-se mà bảo: Chúng ta phải đi lên chiếm hữu đất đai này, chắc chắn chúng ta có thể thắng họ.
Numb VietNVB 13:31  Nhưng những người kia là các bạn thám tử của Ca-lép lại nói: Chúng ta không thể nào tiến công dân xứ đó vì họ mạnh hơn chúng ta.
Numb VietNVB 13:32  Họ tuyên truyền trong vòng dân Y-sơ-ra-ên, dùng lời báo cáo sai lầm về xứ họ đã trinh sát. Họ nói: Đất đai chúng tôi trinh sát đang ăn nuốt dân cư trong đó.
Numb VietNVB 13:33  Tất cả những người chúng tôi thấy đều thuộc hạng khổng lồ. Chúng tôi cũng thấy những người Nê-phi-lim, dòng dõi của A-nác từ Nê-phi-lim mà ra. Chúng tôi thấy mình bé nhỏ như cào cào, và dưới mắt họ chúng tôi cũng thế.
Chapter 14
Numb VietNVB 14:1  Đêm ấy, tất cả nhân dân đều lớn tiếng khóc than.
Numb VietNVB 14:2  Tất cả dân Y-sơ-ra-ên lằm bằm chống nghịch Môi-se và A-rôn. Toàn dân nói với hai ông: Ước gì chúng tôi đã chết tại Ai-cập, hoặc qua đời trong sa mạc cho rồi!
Numb VietNVB 14:3  Tại sao CHÚA đem chúng tôi ra khỏi đất ấy để bắt chúng tôi phải ngã chết dưới lưỡi gươm? Vợ con chúng tôi sẽ trở thành chiến lợi phẩm. Chúng tôi quay về Ai-cập chẳng hơn sao?
Numb VietNVB 14:4  Rồi họ bảo nhau: Chúng ta phải chọn một vị lãnh tụ và quay về Ai-cập!
Numb VietNVB 14:5  Môi-se và A-rôn sấp mặt xuống toàn dân Y-sơ-ra-ên đang họp tại đó.
Numb VietNVB 14:6  Giô-suê con trai Nun và Ca-lép con trai Giê-phu-nê là hai người trong các thám tử xé áo mình
Numb VietNVB 14:7  và nói cùng toàn thể Y-sơ-ra-ên: Đất đai chúng tôi đi trinh sát thật quá tốt.
Numb VietNVB 14:8  Nếu CHÚA đẹp lòng chúng ta, Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta vào xứ ấy, là nơi đất đai đầy tràn sữa và mật, Ngài sẽ ban xứ ấy cho chúng ta.
Numb VietNVB 14:9  Chỉ xin anh chị em đừng nổi loạn chống nghịch CHÚA. Đừng sợ dân xứ ấy vì chúng ta sẽ nuốt chửng họ đi. Sự bảo hộ họ đã bị rút đi rồi, nhưng CHÚA đang ở với chúng ta. Đừng sợ họ!
Numb VietNVB 14:10  Nhưng toàn thể nhân dân bàn nhau đòi ném đá hai người. Ngay lúc ấy, vinh quang của CHÚA xuất hiện tại Trại Hội Kiến cho cả dân Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 14:11  CHÚA phán với Môi-se: Dân này khinh dể Ta cho đến bao giờ? Chúng không chịu tin Ta cho đến bao giờ, mặc dù Ta đã làm bao nhiêu dấu lạ giữa chúng?
Numb VietNVB 14:12  Ta sẽ đánh giết chúng bằng một trận dịch và tuyệt diệt chúng, nhưng Ta sẽ làm cho con thành một nước lớn hơn và mạnh hơn chúng.
Numb VietNVB 14:13  Môi-se thưa với CHÚA: Như thế dân Ai-cập sẽ nghe điều đó! Chúa đã dùng quyền năng để đưa dân tộc này ra khỏi Ai-cập.
Numb VietNVB 14:14  Họ sẽ thuật lại cho cư dân xứ này biết điều đó. Lạy Chúa, họ đã nghe rằng Chúa đang ở với dân tộc này và rằng, lạy Chúa, Chúa đã được người ta thấy tận mặt, rằng đám mây của Chúa đã ngự trên họ, và rằng Chúa đã đi trước họ ban ngày trong một trụ mây và ban đêm trong một trụ lửa.
Numb VietNVB 14:15  Nếu Chúa tuyệt diệt dân này một loạt thì các nước đã nghe báo cáo về Chúa sẽ nói:
Numb VietNVB 14:16  CHÚA không thể nào đem dân Ngài vào đất đã thề hứa ban cho họ, nên Ngài giết họ đi trong sa mạc.
Numb VietNVB 14:17  Bây giờ, xin Chúa trình bày sức mạnh của mình như Chúa đã công bố:
Numb VietNVB 14:18  CHÚA chậm giận, dư dật tình yêu thương, tha thứ tội lỗi và sự phản nghịch. Nhưng Ngài không để kẻ có tội thoát khỏi hình phạt; Ngài phạt con cháu về tội lỗi của cha mẹ cho đến đời thứ ba và thứ tư.
Numb VietNVB 14:19  Xin Chúa tha tội cho dân này; vì tình thương không hề thay đổi của Ngài; cũng như Ngài đã bao lần tha thứ cho họ từ khi còn ở Ai-cập cho đến ngày nay.
Numb VietNVB 14:20  CHÚA đáp: Theo lời con xin, Ta tha cho họ.
Numb VietNVB 14:21  Nhưng thật như Ta hằng sống, vinh quang Ta sẽ tràn ngập đất.
Numb VietNVB 14:22  Trong tất cả những người thấy vinh quang Ta, sẽ không một ai được thấy đất đai Ta đã hứa ban cho tổ tiên họ; họ đã thấy các phép lạ Ta làm tại Ai-cập cũng như
Numb VietNVB 14:23  trong sa mạc, nhưng đã mười lần họ vẫn thử Ta và không vâng lời Ta. Không một ai trong tất cả những người khinh dể Ta sẽ được thấy đất ấy.
Numb VietNVB 14:24  Nhưng tôi tớ Ta là Ca-lép, có một tinh thần khác biệt, đã hết lòng theo Ta; nên Ta sẽ đưa Ca-lép vào đất người đã trinh sát, và con cháu người sẽ hưởng chủ quyền đất ấy.
Numb VietNVB 14:25  Lúc ấy người A-ma-léc và người Ca-na-an đang sống trong thung lũng. CHÚA phán: Ngày mai, các người sẽ quay lại, đi vào sa mạc theo hướng Biển Đỏ.
Numb VietNVB 14:27  Những kẻ tội lỗi này còn phàn nàn oán trách Ta cho đến bao giờ? Ta đã nghe hết những lời của người Y-sơ-ra-ên phàn nàn rồi.
Numb VietNVB 14:28  Con bảo họ rằng: CHÚA phán: Thật như Ta hằng sống, Ta sẽ làm cho các ngươi y như những lời Ta nghe các ngươi kêu ca.
Numb VietNVB 14:29  Thân xác các ngươi sẽ ngã xuống trong sa mạc này; tất cả các ngươi là những người có tên trong cuộc kiểm tra dân số từ hai mươi tuổi trở lên đều sẽ chết hết vì các ngươi oán trách Ta.
Numb VietNVB 14:30  Không một ai trong các ngươi sẽ được vào đất hứa, trừ Ca-lép con Giê-phu-nê và Giô-suê con Nun.
Numb VietNVB 14:31  Đối với con cái của các ngươi, các ngươi nói rằng chúng nó sẽ làm mồi cho địch, nhưng Ta sẽ đưa con cái các ngươi vào đất các ngươi chê bỏ.
Numb VietNVB 14:32  Còn về chính các ngươi thì thây các ngươi sẽ nằm rạp trong sa mạc này.
Numb VietNVB 14:33  Vì các ngươi bất trung, nên con cái các ngươi phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm, cho đến ngày người sau cùng trong các ngươi chết đi trong sa mạc.
Numb VietNVB 14:34  Theo số ngày các ngươi đi trinh sát xứ, là bốn mươi ngày, và mỗi ngày tính thành một năm, các ngươi phải mang tội ác mình trong bốn mươi năm, rồi các người sẽ ý thức được hậu quả của việc chống nghịch Ta.
Numb VietNVB 14:35  Ta là CHÚA, Ta đã phán và Ta sẽ thi hành điều ấy cho toàn thể cộng đồng gian ác này. Chúng đã toa rập nhau chống lại Ta, chúng sẽ chết hết trong sa mạc này không sót một người.
Numb VietNVB 14:36  Riêng các thám tử mà Môi-se đã sai đi trinh sát xứ, khi trở về có xui cho nhân dân lằm bằm cùng Môi-se,
Numb VietNVB 14:37  những người xuyên tạc, nói xấu xứ đó đều bị tai vạ hành chết ngay trước mặt CHÚA.
Numb VietNVB 14:38  Trong những người đi trinh sát xứ chỉ có Giô-suê, con trai của Nun, và Ca-lép, con trai của Giê-phu-nê còn sống được.
Numb VietNVB 14:39  Môi-se thuật lại mọi lời của Chúa cho dân Y-sơ-ra-ên, nên họ vô cùng sầu thảm.
Numb VietNVB 14:40  Sáng hôm sau, họ dậy sớm, leo lên núi và nói: Chúng tôi đã phạm tội. Nhưng bây giờ chúng tôi sẵn sàng đi lên xứ mà CHÚA đã chỉ định.
Numb VietNVB 14:41  Nhưng Môi-se nói: Đã đến nước này mà anh em còn cãi mạng Chúa? Làm vậy anh em chỉ có thất bại.
Numb VietNVB 14:42  Anh em đừng đi lên vì CHÚA không ở cùng anh em.
Numb VietNVB 14:43  Anh em sẽ chết dưới lưỡi gươm của quân A-ma-léc và Ca-na-an vì anh em đã chối bỏ Chúa, nên Ngài cũng từ bỏ anh em.
Numb VietNVB 14:44  Nhưng họ ngoan cố cứ tiến lên núi, mặc dù Rương Giao Ước cũng như Môi-se đều ở lại trong trại.
Numb VietNVB 14:45  Quân A-ma-léc và Ca-na-an ở trên núi đổ xuống đánh giết họ và đánh đuổi họ chạy dài cho đến Họt-ma.
Chapter 15
Numb VietNVB 15:2  Con phải bảo dân Y-sơ-ra-ên: Sau khi các ngươi vào đất Ta đang ban cho ngươi định cư,
Numb VietNVB 15:3  và khi các ngươi dâng cho CHÚA các tế lễ bằng lửa lấy từ bầy bò và bầy cừu mình để có mùi thơm đẹp lòng CHÚA, hoặc tế lễ thiêu, hoặc sinh tế về những lời thề nguyện đặc biệt hay tự hiến, hoặc lễ vật dâng lên nhân kỳ lễ
Numb VietNVB 15:4  thì người đem dâng tế lễ phải dâng cho CHÚA một tế lễ chay một phần mười ê-pha bột mì mịn trộn với một phần tư hin dầu.
Numb VietNVB 15:5  Cứ mỗi con chiên dâng làm tế lễ thiêu, hoặc cứ mỗi sinh tế, con hãy chuẩn bị một phần tư hin rượu làm lễ quán.
Numb VietNVB 15:6  Khi dâng một con chiên đực hãy chuẩn bị tế lễ chay bằng hai phần mười ê-pha bột mịn trộn với một phần ba hin dầu,
Numb VietNVB 15:7  và một phần ba hin rượu làm lễ quán. Các ngươi hãy dâng tế lễ đó như một thứ hương thơm đẹp lòng CHÚA.
Numb VietNVB 15:8  Khi dâng một con bò đực tơ làm tế lễ thiêu hay làm sinh tế vì một lời hứa nguyện đặc biệt, hay vì một tế lễ cầu an cho CHÚA,
Numb VietNVB 15:9  hãy đem theo con bò đực, một tế lễ chay bằng ba phần mười ê-pha bột mịn trộn với nửa hin dầu.
Numb VietNVB 15:10  Cũng hãy đem đến nửa hin rượu làm lễ quán. Đó là một tế lễ dâng bằng lửa có mùi thơm đẹp lòng CHÚA.
Numb VietNVB 15:11  Mỗi con bò đực hay cừu đực, mỗi con chiên con hay dê con đều phải chuẩn bị dâng lễ theo cách đó.
Numb VietNVB 15:12  Hãy chuẩn bị cách ấy cho từng con một, dâng bao nhiêu sinh tế đều phải dâng theo bấy nhiêu tế lễ chay.
Numb VietNVB 15:13  Mỗi người sinh trưởng trong đất nước đều phải làm theo cách ấy khi đem dâng tế lễ bằng lửa có mùi thơm đẹp lòng CHÚA.
Numb VietNVB 15:14  Nếu một người ngoại kiều sống giữa các ngươi, dù chỉ tạm trú trong một thời gian ngắn hoặc định cư lâu dài qua nhiều thế hệ, muốn dâng tế lễ bằng lửa có mùi thơm đẹp lòng CHÚA thì phải làm y như vậy.
Numb VietNVB 15:15  Chỉ có một luật áp dụng cho cộng đồng các ngươi cũng như cho ngoại kiều sống giữa vòng các ngươi. Đó là một lệ định đời đời trải qua các thế hệ. Đối với CHÚA, các ngươi và người ngoại kiều đều như nhau.
Numb VietNVB 15:16  Các luật lệ và sắc lệnh áp dụng cho các ngươi cũng áp dụng cho ngoại kiều sống giữa các ngươi y như vậy.
Numb VietNVB 15:17  CHÚA phán dạy Môi-se: Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên:
Numb VietNVB 15:18  Khi các ngươi vào xứ mà Ta đang dẫn các ngươi đến,
Numb VietNVB 15:19  khi được ăn thực phẩm trong xứ đó, hãy dâng một phần thực phẩm làm lễ vật cho CHÚA.
Numb VietNVB 15:20  Hãy dâng một chiếc bánh bằng bột đầu mùa làm một tế lễ từ sân đạp lúa.
Numb VietNVB 15:21  Suốt các thế hệ tương lai cũng thế, các ngươi phải dâng tế lễ này cho CHÚA lấy từ trong bột đầu mùa.
Numb VietNVB 15:22  Nếu ngươi vô tình không giữ một điều răn nào CHÚA đã ban hành cho Môi-se,
Numb VietNVB 15:23  tức là điều răn của CHÚA dùng ông mà ban cho các ngươi từ ngày CHÚA ban hành cho đến những thế hệ tương lai,
Numb VietNVB 15:24  nếu vô tình phạm tội mà cộng đồng không biết, thì cả cộng đồng phải dâng một con chiên đực làm tế lễ thiêu có mùi thơm đẹp lòng CHÚA luôn với lễ chay và lễ quán như đã ấn định, và một con dê đực làm tế lễ chuộc tội.
Numb VietNVB 15:25  Thầy tế lễ sẽ chuộc tội cho toàn dân Y-sơ-ra-ên thì họ sẽ được tha vì đó là tội vô tình vì không cố ý phạm tội và họ đã đem đến cho CHÚA một tế tễ dâng lên bằng lửa và một tế lễ chuộc tội.
Numb VietNVB 15:26  Toàn dân Y-sơ-ra-ên và các người ngoại kiều sống giữa họ sẽ được tha tội vì toàn dân đều can dự vào việc phạm tội vô tình.
Numb VietNVB 15:27  Nhưng nếu chỉ một người phạm tội vô tình, người ấy phải mang đến một con dê cái một tuổi làm tế lễ chuộc tội.
Numb VietNVB 15:28  Thầy tế lễ phải làm tế lễ chuộc tội trước mặt CHÚA cho kẻ đi sai lạc mà phạm tội vô tình. Khi đã làm tế lễ chuộc tội cho mình, người ấy sẽ được tha thứ.
Numb VietNVB 15:29  Luật này áp dụng cho mọi người phạm tội vô tình dù là người Y-sơ-ra-ên sinh trong xứ hay người ngoại kiều.
Numb VietNVB 15:30  Nhưng bất luận người nào cố ý phạm tội, dù sinh trong xứ hay người ngoại kiều đều đã phạm thượng với CHÚA nên kẻ ấy phải bị truất ra khỏi nhân dân.
Numb VietNVB 15:31  Vì đã khinh dể lời của CHÚA và phạm điều răn Ngài, nên kẻ ấy chắc chắn phải bị truất diệt; nó phải chịu trách nhiệm về tội mình.
Numb VietNVB 15:32  Trong thời gian dân Y-sơ-ra-ên ở trong sa mạc, họ bắt được một người đi lượm củi ngày Sa-bát.
Numb VietNVB 15:33  Những người chứng kiến người ấy đang lượm củi mang nó đến cho Môi-se, A-rôn và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 15:34  Họ giam giữ anh vì chưa rõ phải xử trí thế nào.
Numb VietNVB 15:35  CHÚA phán dạy Môi-se: Người này phải chết. Cả hội chúng phải ném đá người ngoài trại quân.
Numb VietNVB 15:36  Vậy, hội chúng đem anh ra ngoài trại quân và ném đá xử tử anh như lời CHÚA đã truyền cho Môi-se.
Numb VietNVB 15:38  Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Suốt các thế hệ tương lai, phải làm các tua nơi góc các chiếc áo, và kết một sợi dây xanh trên mỗi tua áo.
Numb VietNVB 15:39  Các ngươi phải nhìn các tua áo ấy để nhớ lại tất cả các điều răn của CHÚA hầu cho các ngươi tuân hành và không làm băng hoại mình bằng cách đi theo các dục vọng của lòng và mắt mình.
Numb VietNVB 15:40  Các tua áo sẽ giúp các ngươi nhớ lại và tuân hành mọi điều răn của Ta. Như vậy các ngươi sẽ biệt mình riêng ra thánh cho Ta, là Đức Chúa Trời các ngươi.
Numb VietNVB 15:41  Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Đấng đã đem các ngươi ra khỏi Ai-cập để làm Đức Chúa Trời các ngươi. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi.
Chapter 16
Numb VietNVB 16:1  Cô-rê, con trai Đít-sê-hu, cháu của Kê-hát, chắt của Lê-vi và mấy người Ru-bên là Đa-than và A-bi-ram, con trai Ê-li-áp, với Ôn, con trai Phê-lết xấc xược
Numb VietNVB 16:2  nổi lên chống nghịch Môi-se. Cùng theo họ có hai trăm năm mươi người Y-sơ-ra-ên đều là cấp lãnh đạo cộng đồng danh tiếng, đã từng được bổ nhiệm vào nghị viên hội đồng.
Numb VietNVB 16:3  Họ kết đảng chống nghịch Môi-se và A-rôn, và tố cáo: Các ông thật là quá quắt, toàn thể cộng đồng đều là thánh, và CHÚA đang ở với mỗi người trong cộng đồng. Vậy, tại sao hai ông đặt mình lên cao hơn hội chúng của CHÚA?
Numb VietNVB 16:4  Nghe lời ấy, Môi-se quỳ mọp xuống đất.
Numb VietNVB 16:5  Ông nói với Cô-rê và tất cả phe đảng của người này: Sáng mai, CHÚA sẽ tỏ cho biết ai thuộc về Ngài và ai là thánh, Ngài sẽ cho người ấy đến gần Ngài. Người nào Ngài chọn sẽ được Ngài đem đến gần bên Ngài.
Numb VietNVB 16:6  Ngươi, Cô-rê, và tất cả những người theo ngươi đều phải làm điều này: Hãy cầm lấy lư hương,
Numb VietNVB 16:7  và ngày mai, trước mặt CHÚA, hãy để lửa và trầm hương vào. Người nào CHÚA chọn chính là người thánh. Những người Lê-vi theo ngươi thật là quá quắt!
Numb VietNVB 16:8  Môi-se cũng bảo Cô-rê: Này các người Lê-vi của anh, bây giờ hãy nghe đây!
Numb VietNVB 16:9  Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã biệt riêng các ngươi khỏi cộng đồng Y-sơ-ra-ên và đem các ngươi đến gần Ngài để làm công việc tại Đền Tạm của CHÚA, và để các ngươi đứng trước mặt cộng đồng và phục vụ họ, việc ấy chưa đủ sao?
Numb VietNVB 16:10  Ngài đã đem ngươi và tất cả anh em người Lê-vi đến gần Ngài, thế mà bây giờ các ngươi lại muốn chiếm đoạt chức tế lễ nữa.
Numb VietNVB 16:11  Ngươi và tất cả những người theo ngươi đã cấu kết với nhau để chống nghịch CHÚA. A-rôn là ai mà các ngươi lằm bằm chống nghịch người?
Numb VietNVB 16:12  Sau đó, Môi-se mời Đa-than và A-bi-ram đến, hai người là con trai của Ê-li-áp. Nhưng họ đáp: Chúng ta không đến đâu!
Numb VietNVB 16:13  Ông đã đem chúng ta ra khỏi một xứ đượm sữa và mật để giết chúng ta trong sa mạc, như thế chưa đủ sao? mà bây giờ ông còn muốn tể trị trên chúng ta sao?
Numb VietNVB 16:14  Hơn nữa, ông đâu có đem chúng tôi vào một xứ đượm sữa và mật, đâu có cho chúng tôi thừa hưởng ruộng đất và vườn nho? Liệu ông muốn móc mắt những người đó sao? Không, chúng tôi không đến đâu!
Numb VietNVB 16:15  Môi-se giận lắm nên thưa với CHÚA: Xin Chúa đừng nhậm tế lễ của họ! Tôi chẳng từng lấy của họ một con lừa, cũng chẳng bao giờ làm thương tổn một ai trong vòng họ.
Numb VietNVB 16:16  Môi-se bảo Cô-rê: Ngày mai, ngươi và tất cả những người theo ngươi cùng với A-rôn phải trình diện trước mặt CHÚA.
Numb VietNVB 16:17  Mỗi người phải lấy lư hương mình và đặt trầm hương vào rồi dâng lên trước mặt CHÚA, tất cả là hai trăm năm mươi lư hương. Ngươi và A-rôn cũng phải cầm lư hương mình.
Numb VietNVB 16:18  Vậy, mỗi người đều cầm lư hương, đặt lửa và trầm hương vào, rồi đứng với Môi-se và A-rôn tại cửa Trại Hội Kiến.
Numb VietNVB 16:19  Khi Cô-rê tập hợp tất cả những người theo mình chống nghịch Môi-se và A-rôn tại cửa Trại Hội Kiến, vinh quang của CHÚA hiện ra với toàn thể hội chúng.
Numb VietNVB 16:21  Hai con hãy tách rời khỏi hội chúng này để Ta tiêu diệt chúng ngay lập tức.
Numb VietNVB 16:22  Nhưng Môi-se và A-rôn quỳ mọp xuống và kêu xin: Ôi, lạy Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời của tâm linh mọi người, Chúa nổi giận với cả hội chúng vì một người phạm tội hay sao?
Numb VietNVB 16:24  Con hãy bảo hội chúng: Hãy tách rời trại của Cô-rê, Đa-than và A-bi-ram!
Numb VietNVB 16:25  Môi-se vùng dậy chạy về phía Đa-than và A-bi-ram, theo sau có các trưởng lão của Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 16:26  Ông cảnh cáo hội chúng: Hãy dang xa các trại của những người gian ác này, đừng đụng đến bất luận vật gì thuộc về họ, kẻo các ngươi cũng bị quét sạch vì tất cả tội lỗi của họ chăng?
Numb VietNVB 16:27  Vậy, dân chúng dang xa ra khỏi trại của Cô-rê, Đa-than và A-bi-ram. Trước đó, Cô-rê, Đa-than và A-bi-ram đứng tại cửa trại mình cùng với vợ con, kể cả các con nhỏ.
Numb VietNVB 16:28  Môi-se nói: Nhờ việc này, các ngươi sẽ biết CHÚA đã sai ta thực hiện các công tác đó chứ không phải do ý riêng ta.
Numb VietNVB 16:29  Nếu những kẻ đó chết cách thường tình và chỉ gặp những điều xảy ra cho con người, thì CHÚA không có sai ta.
Numb VietNVB 16:30  Nhưng nếu CHÚA làm một việc hoàn toàn mới lạ, nếu đất hả miệng nuốt họ đi với tất cả những gì thuộc về họ, và họ còn sống mà xuống đáy mộ, thì các ngươi sẽ biết những kẻ này đã khinh dể CHÚA.
Numb VietNVB 16:31  Ông vừa nói xong những lời đó, đất dưới chân họ liền nứt ra,
Numb VietNVB 16:32  và đất hả miệng nuốt trửng họ với gia đình họ cùng với tất cả những người theo Cô-rê và trọn tài sản họ.
Numb VietNVB 16:33  Họ còn sống mà xuống âm phủ với tất cả những gì thuộc về họ. Đất khép miệng lại trên họ và họ chết mất, vì bị tuyệt diệt giữa cộng đồng mình.
Numb VietNVB 16:34  Nghe tiếng họ kêu thét lên, tất cả dân Y-sơ-ra-ên xung quanh họ đều chạy trốn và la hoảng: Đất cũng sắp nuốt trửng chúng ta!
Numb VietNVB 16:35  Một ngọn lửa từ CHÚA loè ra đốt chết hai trăm năm mươi người đang dâng hương.
Numb VietNVB 16:37  Con hãy bảo Ê-lê-a-sa con trai A-rôn, thầy tế lễ, thu lượm các lư hương ra khỏi chỗ lửa cháy, và vãi than của các lư hương nơi xa vì các lư hương đó đã nên thánh,
Numb VietNVB 16:38  tức là các lư hương của những người đã phạm tội mà bị thiệt mạng. Hãy dùng búa dát mỏng các lư hương ấy, làm thành những tấm đồng để bọc bàn thờ, vì các lư hương ấy đã được dâng lên trước mặt CHÚA và đã được thánh hóa. Hãy để các tấm ấy làm một dấu hiệu cho Y-sơ-ra-ên!
Numb VietNVB 16:39  Vậy, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa thu lượm các lư hương bằng đồng của những kẻ bị chết cháy rồi dùng búa dát mỏng để bọc bàn thờ.
Numb VietNVB 16:40  Đó là một kỷ niệm cho dân Y-sơ-ra-ên để nhắc nhở những người ngoài dòng dõi A-rôn đừng đến gần để xông hương trước mặt CHÚA, kẻo bị chung số phận với Cô-rê và những kẻ theo ông.
Numb VietNVB 16:41  Hôm sau, toàn thể cộng đồng đều lầm bầm chống nghịch Môi-se và A-rôn: Hai ông đã giết hại dân Chúa!
Numb VietNVB 16:42  Khi hội chúng đang họp nhau chống nghịch Môi-se và A-rôn, họ ngoảnh lại nhìn Trại Hội Kiến, thình lình mây che phủ trại và vinh quang của CHÚA xuất hiện.
Numb VietNVB 16:43  Môi-se và A-rôn liền đi đến trước Trại Hội Kiến.
Numb VietNVB 16:45  Hãy ra khỏi giữa hội chúng này thì Ta sẽ tiêu diệt chúng nó ngay lập tức! Môi-se và A-rôn liền sấp mặt xuống đất.
Numb VietNVB 16:46  Môi-se bảo A-rôn: Xin anh cầm lư hương mình, đặt trầm hương vào với lửa lấy từ bàn thờ rồi đi gấp đến giữa hội chúng để làm tế lễ chuộc tội cho họ. Vì CHÚA đã nổi thạnh nộ và trận dịch đã bắt đầu!
Numb VietNVB 16:47  Vậy, A-rôn làm theo điều Môi-se căn dặn và chạy vào giữa hội chúng. Trận dịch đã bắt đầu hành hại nhân dân, nhưng A-rôn dâng hương và chuộc tội cho họ.
Numb VietNVB 16:48  Ông cứ đứng giữa người sống và người chết, trận dịch ngừng lại.
Numb VietNVB 16:49  Nhưng mười bốn ngàn bảy trăm người đã chết vì trận dịch đó, ngoài những kẻ đã chết vì Cô-rê.
Numb VietNVB 16:50  Lúc ấy, A-rôn quay lại với Môi-se tại cửa Trại Hội Kiến vì trận dịch đã chấm dứt.
Chapter 17
Numb VietNVB 17:2  Hãy bảo mỗi trưởng chi tộc Y-sơ-ra-ên đem đến một cây gậy; nghĩa là mười hai cây gậy của các chi tộc trưởng của mỗi chi tộc.
Numb VietNVB 17:3  Con phải đề tên mỗi người trên cây gậy của mình, và đề tên A-rôn trên cây gậy của Lê-vi; vì phải có một cây gậy cho mỗi trưởng chi tộc.
Numb VietNVB 17:4  Con đem các gậy này đặt trong Trại Hội Kiến, trước Rương Giao Ước, là nơi Ta sẽ gặp con.
Numb VietNVB 17:5  Gậy của người được Ta chọn sẽ trổ hoa, như vậy nhân dân sẽ không còn lý do gì để phàn nàn con nữa.
Numb VietNVB 17:6  Môi-se nói lại với người Y-sơ-ra-ên, và các trưởng chi tộc vâng theo huấn thị, đem gậy đến.
Numb VietNVB 17:7  Môi-se đem cất mười hai cây gậy trong Trại Hội Kiến trước mặt Chúa. Gậy của A-rôn ở giữa các gậy khác.
Numb VietNVB 17:8  Ngày hôm sau, khi Môi-se trở vào Trại Hội Kiến, ông thấy cây gậy của A-rôn tượng trưng cho chi tộc Lê-vi, đã đâm chồi, trổ hoa, và kết quả, có trái hạnh nhân đã chín.
Numb VietNVB 17:9  Môi-se đem các cây gậy từ trong Trại Hội Kiến ra cho mọi người xem, họ sững sờ đứng nhìn, và cuối cùng các trưởng chi tộc lấy gậy mình về.
Numb VietNVB 17:10  Nhưng Chúa lại bảo Môi-se: Đem gậy của A-rôn đặt tại trước Rương Giao Ước, dùng nhắc nhở, cảnh cáo nhân dân về vụ nổi loạn này, để họ khỏi chết vì tai vạ và không bao giờ dám phàn nàn Ta nữa.
Numb VietNVB 17:12  Người Y-sơ-ra-ên hoảng sợ nói với Môi-se: Nầy chúng tôi bị diệt, chúng tôi bị chết, chúng tôi chết mất hết thảy!
Numb VietNVB 17:13  Phàm ai đến gần Trại Hội Kiến đều chết, thì chúng tôi chết hết sao?
Chapter 18
Numb VietNVB 18:1  CHÚA bảo A-rôn: Con, các con trai cùng cả gia đình con phải chịu trách nhiệm về những tội xúc phạm nơi thánh. Cũng vậy, con và các con trai con phải trách nhiệm về những tội liên hệ đến chức vụ thầy tế lễ.
Numb VietNVB 18:2  Tất cả những người trong chi tộc Lê-vi, họ hàng của con, là người giúp việc cho con. Tuy nhiên, chỉ có con và các con trai con được thi hành chức vụ trong Nơi Thánh.
Numb VietNVB 18:3  Các người Lê-vi khác phải chu toàn trách nhiệm của họ đối với con và toàn thể công việc tại trại, tuy nhiên họ không được đến gần các vật dụng trong Nơi Thánh và bàn thờ, để họ lẫn con khỏi phải chết.
Numb VietNVB 18:4  Họ sẽ kết hiệp với con và đảm trách công việc tại Trại Hội Kiến, tất cả công việc tại trại, nhưng không một ai khác được phép đến gần các con
Numb VietNVB 18:5  trong khi các con phụ trách công việc tại Nơi Thánh và trước bàn thờ kẻo cơn thịnh nộ Ta nổi lên chống lại dân Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 18:6  Người Lê-vi đã được Ta chọn trong dân Y-sơ-ra-ên, họ đã được dâng cho Chúa, này Ta giao họ cho con để giúp con trong công việc Trại Hội Kiến.
Numb VietNVB 18:7  Ta cũng ủy cho con chức vụ thầy tế lễ, chỉ có con và các con trai con thi hành chức vụ này trước bàn thờ và bên trong bức màn. Ngoài ra, người nào đụng đến các công việc này đều phải chết.
Numb VietNVB 18:8  Chúa nói tiếp với A-rôn: Ngoài ra, Ta còn cho các ngươi tất cả các lễ vật của người Y-sơ-ra-ên dâng theo lối nâng tay đưa lên trước Chúa. Các lễ vật thánh đều thuộc về con và các con trai con. Lệ này áp dụng vĩnh viễn.
Numb VietNVB 18:9  Trừ phần được đem đốt dâng lên, phần còn lại của các lễ vật ngũ cốc, lễ vật chuộc tội và lễ vật chuộc lỗi đều thuộc về con và các con trai con.
Numb VietNVB 18:10  Đó là những vật rất thánh, chỉ được ăn tại một nơi thánh và chỉ nam giới mới được ăn.
Numb VietNVB 18:11  Còn các lễ vật được dâng lên theo lối đưa qua đưa lại cũng thuộc về con, nhưng mọi người trong gia đình, nam lẫn nữ đều được phép ăn, nếu họ tinh sạch.
Numb VietNVB 18:12  Ta ban cho con phần tốt nhất của dầu, rượu mới và thóc, tất cả các lễ vật đầu mùa người ta đem dâng lên Chúa.
Numb VietNVB 18:13  Ta cũng ban cho con tất cả các lễ vật đầu mùa của các thổ sản khác người ta dâng lên CHÚA. Mọi người tinh sạch trong gia đình con đều được phép ăn.
Numb VietNVB 18:14  Vậy, tất cả mọi vật người Y-sơ-ra-ên dâng hiến cho Ta đều thuộc về con, kể cả các con trưởng nam và thú vật đầu lòng của họ.
Numb VietNVB 18:15  Tuy nhiên, con trưởng nam và con đầu lòng của thú vật không sạch phải được chuộc lại.
Numb VietNVB 18:16  Khi chúng được một tháng, giá chuộc tương đương với một lượng rưỡi bạc theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh.
Numb VietNVB 18:17  Nhưng con đầu lòng của các loài bò, cừu và dê thì không được chuộc vì chúng được biệt riêng ra thánh. Phải lấy huyết chúng rảy lên bàn thờ, lấy mỡ đem đốt, đó là một lễ vật dùng lửa dâng lên có mùi thơm đẹp lòng CHÚA.
Numb VietNVB 18:18  Thịt của các sinh tế này thuộc về con, đặc biệt là cái ngực được nâng tay dâng lên và cái đùi bên phải.
Numb VietNVB 18:19  Tóm lại, Ta cho con mọi lễ vật của người Y-sơ-ra-ên dâng theo lối nâng tay đưa lên trước Chúa, mọi người trong gia đình con nam lẫn nữ đều được phép ăn. Đây là luật lệ vĩnh viễn, là một giao ước bất di bất dịch giữa Chúa với con và con cháu con.
Numb VietNVB 18:20  Chúa tiếp: Tuy nhiên con sẽ không được thừa hưởng đất đai, con không có phần gì cả trong dân Y-sơ-ra-ên. Chính Ta là phần của con, là sản nghiệp của con giữa họ.
Numb VietNVB 18:21  Tất cả những phần mười mà dân Y-sơ-ra-ên dâng lên Ta, Ta ban cho người Lê-vi vì công khó họ phục dịch trong Trại Hội Kiến.
Numb VietNVB 18:22  Từ nay về sau, người Y-sơ-ra-ên sẽ không ai vào Trại Hội Kiến để khỏi mắc tội và khỏi chết.
Numb VietNVB 18:23  Người Lê-vi sẽ chịu trách nhiệm về công việc Trại Hội Kiến, và nếu có lỗi lầm, họ sẽ mang tội. Đây là một luật có tính cách vĩnh viễn áp dụng qua các thế hệ: người Lê-vi sẽ không thừa hưởng tài sản trong Y-sơ-ra-ên,
Numb VietNVB 18:24  vì Ta đã cho họ một phần mười lợi tức của người Y-sơ-ra-ên, là phần nhân dân đem dâng lên Chúa, chính vì thế mà Ta phán về người Lê-vi rằng họ không được thừa hưởng gì cả trong dân Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 18:26  Con bảo người Lê-vi khi nhận được một phần mười lợi tức của người Y-sơ-ra-ên mà CHÚA ban cho anh em hưởng, phải lấy một phần mười trong số phần mười đó dâng cho Chúa.
Numb VietNVB 18:27  Lễ vật này sẽ được coi như lễ vật đầu mùa chọn lọc, như ngũ cốc dâng từ sân đạp lúa, như rượu nho dâng từ bồn ép nho của họ vậy.
Numb VietNVB 18:28  Vậy trong tất cả những phần mười anh em nhận được từ dân Y-sơ-ra-ên, anh em phải dành riêng một lễ vật dâng lên Chúa, và anh em hãy giao lễ vật ấy cho thầy tế lễ A-rôn.
Numb VietNVB 18:29  Trong tất cả những món quà anh em nhận được, anh em hãy dành riêng phần tốt nhất dâng lên CHÚA; đó là phần biệt riêng ra thánh cho CHÚA.
Numb VietNVB 18:30  Con hãy nói tiếp với người Lê-vi: Một khi anh em đã dâng phần tốt nhất rồi, phần còn lại sẽ được kể như thổ sản từ sân đạp lúa và bồn ép nho.
Numb VietNVB 18:31  Phần còn lại này anh em và gia đình được phép ăn bất kỳ nơi nào vì đó là thù lao cho công khó anh em phục dịch tại trại Hội Kiến.
Numb VietNVB 18:32  Nếu anh em dâng phần tốt nhất lên CHÚA, anh em sẽ không mắc tội khi ăn phần còn lại. Khi anh em dâng lên CHÚA phần tốt nhất trước khi ăn, anh em sẽ không mắc tội xúc phạm lễ vật thánh của dân Y-sơ-ra-ên dâng lên và khỏi phải chết.
Chapter 19
Numb VietNVB 19:2  Đây là một điều khoản trong luật CHÚA ban hành: Người Y-sơ-ra-ên phải chọn một con bò cái tơ mầu đỏ, không vết tích, chưa mang ách.
Numb VietNVB 19:3  Hãy đem con bò đó cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa. Người sẽ dẫn nó ra ngoài trại, và chọc tiết trước mặt người.
Numb VietNVB 19:4  Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa sẽ lấy ngón tay nhúng vào huyết bò, rảy bảy lần hướng về phía Trại Hội Kiến.
Numb VietNVB 19:5  Thầy tế lễ sẽ trông coi việc thiêu con bò: cả da, thịt, huyết và phân.
Numb VietNVB 19:6  Thầy tế lễ sẽ lấy cây bách hương, cành bài hương thảo và chỉ đỏ ném vào con bò đang cháy.
Numb VietNVB 19:7  Sau đó, thầy tế lễ phải giặt áo, tắm rồi mới vào trại và bị ô uế cho đến tối hôm ấy.
Numb VietNVB 19:8  Người đốt con bò cũng phải giặt quần áo, tắm và bị ô uế cho đến tối hôm ấy.
Numb VietNVB 19:9  Một người tinh sạch sẽ hốt tro con bò chứa vào một nơi tinh sạch bên ngoài trại. Người Y-sơ-ra-ên sẽ giữ tro này dùng làm nước tẩy uế; con bò đó là tế lễ chuộc tội.
Numb VietNVB 19:10  Người hốt tro phải giặt áo và bị ô uế cho đến tối hôm ấy. Luật này có tính cách vĩnh viễn, áp dụng cho người Y-sơ-ra-ên cũng như cho ngoại kiều.
Numb VietNVB 19:11  Ai đụng vào xác người chết phải bị ô uế bảy ngày.
Numb VietNVB 19:12  Người ấy phải dùng nước tẩy uế tẩy sạch mình vào ngày thứ ba và ngày thứ bảy thì sẽ được sạch. Nếu không tẩy mình như thế, sẽ không được sạch.
Numb VietNVB 19:13  Người nào đụng vào xác người chết mà không tẩy mình cho sạch, xúc phạm đến Trại Hội Kiến của Chúa, phải bị trục xuất ra khỏi Y-sơ-ra-ên. Người ấy vẫn bị ô uế vì nước tẩy uế chưa được rảy trên mình.
Numb VietNVB 19:14  Khi có người chết trong trại, phải áp dụng luật này: Người nào vào trại và người nào ở trong trại ấy đều bị ô uế bảy ngày.
Numb VietNVB 19:15  Nếu trong trại ấy có bình không đậy nắp, sẽ bị ô uế.
Numb VietNVB 19:16  Bên ngoài đồng trống, nếu ai đụng vào một người chết vì đâm chém, hoặc đụng vào một người chết tự nhiên, xương người chết hay mồ mả, người ấy sẽ bị ô uế bảy ngày.
Numb VietNVB 19:17  Muốn tẩy sạch những người này, phải lấy một ít tro của con bò thiêu làm sinh tế chuộc tội bỏ vào một cái bình, rồi lấy nước đổ vào.
Numb VietNVB 19:18  Một người tinh sạch sẽ lấy cành bài hương thảo nhúng vào bình, rảy nước trên trại, trên tất cả đồ dùng trong trại, trên cả những người ở trong trại đó, và trên những người đã đụng vào xương người chết hay mồ mả, đụng vào người chết vì đâm chém hay chết tự nhiên.
Numb VietNVB 19:19  Người tinh sạch phải rảy nước trên người ô uế ngày thứ ba và ngày thứ bảy, và vào ngày thứ bảy, việc tẩy uế hoàn tất. Người bị ô uế phải giặt áo, tắm rửa thì tối hôm ấy sẽ được sạch.
Numb VietNVB 19:20  Nhưng nếu người ô uế không lo tẩy mình, phải bị trục xuất khỏi cộng đồng vì đã xúc phạm đến nơi thánh của CHÚA. Vì nước tẩy uế không rảy trên người ấy, người ấy không được sạch.
Numb VietNVB 19:21  Đây là một luật áp dụng vĩnh viễn.Người rảy nước tẩy uế phải giặt quần áo mình, và người nào đụng vào nước tẩy uế sẽ bị ô uế cho đến tối hôm ấy.
Numb VietNVB 19:22  Bất kỳ vật gì bị người ô uế đụng vào, đều thành ô uế; và ai đụng vào vật ấy cũng bị ô uế cho đến tối hôm ấy.
Chapter 20
Numb VietNVB 20:1  Vào tháng thứ nhất, toàn thể nhân dân Y-sơ-ra-ên đi vào sa mạc Xin. Họ ở lại Ca-đê, Mi-ri-am qua đời và được an táng tại đó.
Numb VietNVB 20:2  Vì không có nước uống, nhân dân họp nhau lại chống đối Môi-se và A-rôn.
Numb VietNVB 20:3  Họ trách Môi-se: Ước gì chúng tôi cùng ngã chết với anh em chúng tôi trước mặt CHÚA!
Numb VietNVB 20:4  Tại sao ông đem dân của CHÚA vào sa mạc này cho cả người lẫn súc vật đều chết khát?
Numb VietNVB 20:5  Sao ông bắt chúng tôi bỏ Ai-cập vào nơi khốn nạn này, là nơi không ai gieo giống, trồng cây vả, cây nho, cây lựu gì được cả, là nơi không có nước uống?
Numb VietNVB 20:6  Môi-se và A-rôn lìa họ, đi đến cửa Trại Hội Kiến, quỳ xuống. Vinh quang của CHÚA hiện ra.
Numb VietNVB 20:8  Cầm lấy cây gậy, rồi con và A-rôn, anh con đi triệu tập nhân dân. Trước mặt họ, con sẽ bảo vầng đá kia, nó sẽ phun nước ra. Con sẽ cho họ và bầy gia súc của họ uống nước chảy ra từ vầng đá.
Numb VietNVB 20:9  Vậy Môi-se cầm lấy cây gậy trước mặt CHÚA theo lời Ngài dạy.
Numb VietNVB 20:10  Môi-se và A-rôn triệu tập nhân dân lại trước vầng đá, rồi Môi-se nói: Những kẻ phản loạn kia, nghe đây! Chúng ta phải lấy nước từ trong vầng đá này ra cho các ngươi uống sao?
Numb VietNVB 20:11  Nói xong, ông giơ gậy lên đập vào vầng đá hai lần. Nước bắn vọt ra. Người và thú vật đều uống.
Numb VietNVB 20:12  Nhưng CHÚA phán bảo Môi-se và A-rôn: Vì các ngươi không tin Ta, không tôn thánh Ta trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, nên các ngươi sẽ không dẫn dân vào đất Ta đã hứa cho họ.
Numb VietNVB 20:13  Nơi đó là nước Mê-ri-ba, nơi người Y-sơ-ra-ên chống đối CHÚA, và cũng là nơi Ngài tỏ đức thánh khiết của Ngài ra giữa họ.
Numb VietNVB 20:14  Từ Ca-đê, Môi-se sai sứ đến nói với vua nước Ê-đôm như sau:Đây là lời của Y-sơ-ra-ên, em vua. Vua đã biết những nỗi gian khổ của chúng tôi.
Numb VietNVB 20:15  Tổ tiên chúng tôi đã xuống Ai-cập và ở lại đó lâu ngày; người Ai-cập ngược đãi chúng tôi,
Numb VietNVB 20:16  nhưng khi chúng tôi kêu la cùng CHÚA, Ngài nghe, sai thiên sứ đem chúng tôi ra khỏi Ai-cập.Bây giờ, chúng tôi đang ở Ca-đê, một thành ở đầu bờ cõi nước Ê-đôm.
Numb VietNVB 20:17  Xin cho phép chúng tôi đi qua đất vua. Chúng tôi sẽ không đi ngang qua đồng ruộng, vườn nho, cũng không múc nước giếng mà uống. Chúng tôi sẽ cứ đường cái mà đi, không rẽ sang phải hay trái, cho đến khi ra khỏi biên giới.
Numb VietNVB 20:18  Nhưng Ê-đôm đáp:Các ngươi không được đi qua đất nước ta. Nếu không nghe, chúng ta sẽ cầm gươm kéo ra tấn công.
Numb VietNVB 20:19  Người Y-sơ-ra-ên nói:Chúng tôi chỉ xin đi trên đường cái. Nếu chúng tôi và súc vật có uống nước, chúng tôi sẽ xin trả tiền. Chỉ xin cho chúng tôi đi qua, chúng tôi không xin gì hơn nữa
Numb VietNVB 20:20  Họ lại đáp:Không. Các ngươi không được đi qua. Rồi Ê-đôm kéo một đạo quân hùng hậu ra ngăn chặn.
Numb VietNVB 20:21  Vì Ê-đôm từ chối không cho Y-sơ-ra-ên đi qua đất mình, nên Y-sơ-ra-ên tránh đi nơi khác.
Numb VietNVB 20:22  Toàn dân Y-sơ-ra-ên từ Ca-đê kéo đến núi Hô-rơ.
Numb VietNVB 20:23  Tại núi Hô-rơ, cạnh biên giới Ê-đôm, CHÚA phán với Môi-se và A-rôn:
Numb VietNVB 20:24  A-rôn sẽ về với tổ tiên mình, không được vào đất Ta đã cho Y-sơ-ra-ên, vì hai con đã nghịch mạng Ta tại Mê-ri-ba.
Numb VietNVB 20:25  Đem A-rôn và con A-rôn là Ê-lê-a-sa lên núi Hô-rơ.
Numb VietNVB 20:26  Tại đó con sẽ lấy áo lễ của A-rôn mặc cho Ê-lê-a-sa, con A-rôn. A-rôn qua đời tại đó.
Numb VietNVB 20:27  Môi-se tuân lệnh Chúa. Ba người lên núi Hô-rơ trước sự chứng kiến của nhân dân.
Numb VietNVB 20:28  Trên đỉnh núi, Môi-se lấy bộ áo lễ của A-rôn, mặc cho Ê-lê-a-sa, con A-rôn. A-rôn qua đời trên đỉnh núi này. Sau đó, Môi-se và Ê-lê-a-sa xuống núi.
Numb VietNVB 20:29  Khi biết A-rôn đã mất, toàn thể nhân dân Y-sơ-ra-ên khóc ông suốt ba mươi ngày.
Chapter 21
Numb VietNVB 21:1  Khi Vua A-rát, người Ca-na-an ở phía nam nghe tin người Y-sơ-ra-ên đang tiến đến theo đường đi A-tha-rim, liền kéo ra tấn công, bắt sống được mấy người.
Numb VietNVB 21:2  Lúc ấy, người Y-sơ-ra-ên thề nguyện với CHÚA: Nếu Chúa cho chúng tôi chiến thắng dân này, chúng tôi sẽ tận diệt các thành ấy của họ.
Numb VietNVB 21:3  CHÚA nhậm lời cầu nguyện của người Y-sơ-ra-ên, cho họ chiến thắng Ca-na-an. Họ tận diệt quân thù, tàn phá các thành, và đặt tên nơi này là Họt-ma.
Numb VietNVB 21:4  Từ núi Hô-rơ, họ đi vòng về hướng Biển Đỏ để tránh đất Ê-đôm, và vì thế, nhân dân mất lòng kiên nhẫn.
Numb VietNVB 21:5  Họ xúc phạm đến Đức Chúa Trời, nói nghịch Môi-se, rằng: Sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai-cập để chết trong sa mạc này? Ở đây chẳng có bánh, chẳng có nước. Và chúng tôi đã chán ngấy loại bánh đạm bạc này!
Numb VietNVB 21:6  CHÚA sai rắn lửa đến, cắn nhiều người chết.
Numb VietNVB 21:7  Người ta đến nói với Môi-se: Chúng tôi có tội vì đã nói xúc phạm đến CHÚA và ông. Xin ông cầu CHÚA để Ngài đuổi rắn đi. Môi-se cầu thay cho nhân dân.
Numb VietNVB 21:8  CHÚA phán bảo Môi-se: Làm một con rắn lửa, đem treo trên một cây trụ. Người bị rắn cắn khi nhìn đến nó thì được sống.
Numb VietNVB 21:9  Vậy Môi-se làm một con rắn bằng đồng, đem treo trên một cây trụ. Ai bị rắn cắn, nhìn lên con rắn đồng đều được thoát chết.
Numb VietNVB 21:10  Người Y-sơ-ra-ên lại ra đi, và dừng chân cắm trại tại Ô-bốt.
Numb VietNVB 21:11  Đi từ Ô-bốt, họ cắm trại tại Y-giê A-ba-rim trong sa mạc, về phía đông Mô-áp.
Numb VietNVB 21:12  Từ đó ra đi, họ cắm trại tại thung lũng Xê-rết.
Numb VietNVB 21:13  Tiếp tục ra đi, họ cắm trại trong sa mạc, bên kia sông Ạt-nôn; sa mạc này lan rộng đến lãnh thổ người A-mô-rít. Sông Ạt-nôn là biên giới xứ Mô-áp, nằm giữa Mô-áp và lãnh thổ người A-mô-rít.
Numb VietNVB 21:14  Vì thế trong sách chiến trận của CHÚA có ghi:Na-hép ở Su-phơ và các thung lũng,Sông Ạt-nôn và triền thung lũng
Numb VietNVB 21:15  Chạy dài đến thành A-rơ,Lượn quanh biên giới Mô-áp.
Numb VietNVB 21:16  Từ đó, họ tiếp tục đi đến Bê-e, và nơi đây CHÚA phán bảo Môi-se: Tập họp nhân dân lại, Ta sẽ cho họ nước uống.
Numb VietNVB 21:17  Và người Y-sơ-ra-ên ca lên như sau:Trào nước lên, hỡi giếngCho ta lên tiếng, hát ca
Numb VietNVB 21:18  Giếng vua khơi, các nhà quý tộc đàoĐào bằng gậy,Khơi bằng cây phủ việt. Rồi họ từ sa mạc đi đến Ma-tha-na.
Numb VietNVB 21:19  Từ Ma-tha-na họ đến Na-ha-li-ên; từ Na-ha-li-ên đến Ba-mốt;
Numb VietNVB 21:20  từ Ba-mốt đến thung lũng ở trong địa phận Mô-áp, tới đỉnh núi Phích-ga, và từ đấy nhìn thấy khắp sa mạc.
Numb VietNVB 21:21  Y-sơ-ra-ên sai sứ đến nói với Si-hôn, vua A-mô-rít như sau:
Numb VietNVB 21:22  Xin cho chúng tôi đi qua đất vua. Chúng tôi sẽ không đi vào đồng ruộng, vườn nho, cũng không múc nước giếng để uống. Chúng tôi sẽ theo đường cái quan cho đến khi ra khỏi lãnh thổ nhà vua.
Numb VietNVB 21:23  Nhưng Si-hôn không cho Y-sơ-ra-ên đi qua đất mình. Vua đem toàn thể quân đội kéo ra sa mạc, và tấn công Y-sơ-ra-ên tại Gia-hát.
Numb VietNVB 21:24  Người Y-sơ-ra-ên chém chết Si-hôn, chiếm lấy đất từ Ạt-nôn đến Gia-bốc, cho đến biên giới A-mô-rít, vì biên cương A-mô-rít bền vững.
Numb VietNVB 21:25  Y-sơ-ra-ên chiếm hết các thành của người A-mô-rít, kể cả thành Hết-bôn và các làng mạc chung quanh.
Numb VietNVB 21:26  Hết-bôn là kinh đô của Si-hôn vua A-mô-rít. Ngày trước, Si-hôn đã chiến thắng vua Mô-áp, chiếm đất của vua này tới Ạt-nôn.
Numb VietNVB 21:27  Cho nên, có thi sĩ đã viết:Hãy cùng nhau đến Hết-bônXây dựng lại thành của Si-hôn!
Numb VietNVB 21:28  Từ Hết-bôn lửa đã phát raNgọn lửa cháy từ thành của Si-hônThiêu hủy A-rơ của Mô-ápLà thành ngự trị Ạt-nôn từ trên cao.
Numb VietNVB 21:29  Hỡi dân Mô-áp, khốn khổ cho ngươiHỡi dân Kê-mốt, họa diệt vong đã tớiCon trai ngươi phải trốn tránh lưu lạcCon gái ngươi phải đọa đày tù rạcChính vì Si-hôn, vua dân A-mô-rít.
Numb VietNVB 21:30  Nhưng nay ta lật đổ nóTiêu hủy Hết-bôn đến tận Đi-bôn,Ta tàn phá nó cho đến Nô-pháchCho đến tận Mê-đê-ba.
Numb VietNVB 21:31  Vậy, người Y-sơ-ra-ên chiếm ngụ đất của người A-mô-rít.
Numb VietNVB 21:32  Môi-se sai người đi trinh sát Gia-ê-xe, và đánh chiếm hết các vùng phụ cận, đuổi người A-mô-rít đi.
Numb VietNVB 21:33  Sau đó, người Y-sơ-ra-ên quay lại, đi lên hướng Ba-san. Óc, vua Ba-san kéo toàn quân ra chận họ tại Ết-rê-i.
Numb VietNVB 21:34  CHÚA phán với Môi-se: Đừng sợ người, vì Ta giao người vào tay con, luôn cả quân dân và đất đai của người nữa. Hãy xử người như con đã xử Si-hôn vua A-mô-rít ở Hết-bôn vậy.
Numb VietNVB 21:35  Vậy, người Y-sơ-ra-ên giết Óc, con cái và quân dân của người, không để một ai sống sót, rồi chiếm đóng đất đai của người.
Chapter 22
Numb VietNVB 22:1  Sau đó, người Y-sơ-ra-ên đi đến đồng bằng Mô-áp, và cắm trại bên kia sông Giô-đanh, đối diện Giê-ri-cô.
Numb VietNVB 22:2  Ba-lác, con trai Xếp-bô, thấy hết mọi điều Y-sơ-ra-ên làm cho người A-mô-rít.
Numb VietNVB 22:3  Mô-áp càng kinh hoàng vì thấy người Y-sơ-ra-ên đông đảo quá.
Numb VietNVB 22:4  Người Mô-áp bàn với các trưởng lão Ma-đi-an: Đoàn dân này sẽ ăn nuốt chúng ta như bò ăn cỏ ngoài đồng vậy. Vậy, Ba-lác con Xếp-bô, vua Mô-áp,
Numb VietNVB 22:5  gửi các sứ giả đi triệu Ba-la-am con trai Bê-ô, ông này đang sống ở quê mình là Phê-thô-rơ, bên bờ sông, nói rằng:Một dân tộc đến từ Ai-cập đông rợp đất, đang đóng bên chúng tôi.
Numb VietNVB 22:6  Bây giờ xin ông đến nguyền rủa họ, vì họ mạnh hơn chúng tôi; và như thế, có lẽ chúng tôi sẽ đuổi họ ra khỏi đất này được. Vì tôi biết rằng ai được ông chúc phước sẽ được phước, ai bị ông nguyền rủa sẽ bị họa.
Numb VietNVB 22:7  Các trưởng lão Mô-áp và Ma-đi-an ra đi, mang theo lễ vật bói toán. Gặp Ba-la-am, họ trình bầy mọi điều Ba-lác dặn.
Numb VietNVB 22:8  Ba-la-am bảo họ: Xin các ông nghỉ lại đêm nay. Tôi sẽ trả lời các ông tùy theo điều CHÚA sẽ phán dạy tôi. Vậy các trưởng lão Mô-áp ở lại.
Numb VietNVB 22:10  Ba-la-am thưa: Ba-lác con trai Xếp-bô, vua Mô-áp sai những người này đến nói rằng:
Numb VietNVB 22:11  Một dân tộc đến từ Ai-cập đông rợp đất. Hãy đến nguyền rủa họ cho tôi, và có lẽ chúng tôi sẽ đánh đuổi họ đi được
Numb VietNVB 22:12  Nhưng Đức Chúa Trời bảo Ba-la-am: Đừng đi với họ. Ngươi không được nguyền rủa dân ấy vì họ được chúc phước.
Numb VietNVB 22:13  Sáng hôm sau, Ba-la-am thức dậy nói với các sứ giả của Ba-lác: Xin các ông về xứ mình đi, vì CHÚA không cho tôi đi với các ông.
Numb VietNVB 22:14  Các sứ giả Mô-áp trở về, thưa với Ba-lác: Ba-la-am từ khước, không chịu đi với chúng tôi.
Numb VietNVB 22:15  Ba-lác gửi một số sứ giả khác đông hơn, và gồm những người được trọng vọng hơn những người trước.
Numb VietNVB 22:16  Họ đến nói với Ba-la-am:Ba-lác con Xếp-bô nói: Xin ông đừng từ chối đến gặp tôi.
Numb VietNVB 22:17  Tôi hứa sẽ trọng đãi ông tột bực, tôi sẽ làm bất cứ điều gì ông muốn, xin ông đến nguyền rủa dân này cho tôi.
Numb VietNVB 22:18  Nhưng Ba-la-am đáp lời họ: Dù Ba-lác có cho tôi cung điện chứa đầy vàng bạc, tôi cũng không thể trái lệnh của CHÚA, Đức Chúa Trời tôi để làm một việc, dù lớn hay nhỏ.
Numb VietNVB 22:19  Bây giờ, tôi cũng xin các ông nghỉ lại đây đêm nay, để tôi xem có điều gì CHÚA phán dạy thêm nữa không.
Numb VietNVB 22:20  Đêm hôm ấy, Đức Chúa Trời đến và phán với Ba-la-am: Nếu những người ấy đến mời, thì cứ dậy đi với họ, nhưng ngươi chỉ được làm điều gì Ta bảo.
Numb VietNVB 22:21  Ba-la-am dậy sớm, thắng yên lừa, ra đi với các sứ giả Mô-áp.
Numb VietNVB 22:22  Nhưng việc ông đi làm cho Đức Chúa Trời giận. Thiên sứ của CHÚA đứng trên đường ngăn cản ông. Ba-la-am cưỡi lừa, có hai người đầy tớ đi theo.
Numb VietNVB 22:23  Khi con lừa thấy thiên sứ CHÚA đứng trên đường, tay cầm kiếm tuốt trần, nó đi tẻ xuống ruộng. Ba-la-am đánh nó, bắt nó trở lại trên đường.
Numb VietNVB 22:24  Thiên sứ CHÚA đến đứng tại một khúc đường giữa hai vườn nho, hai bên đường đều có tường.
Numb VietNVB 22:25  Lừa thấy thiên sứ CHÚA liền đứng nép mình vào tường, làm kẹt chân Ba-la-am, nên ông lại đánh nó.
Numb VietNVB 22:26  Thiên sứ CHÚA đi tới đứng tại một nơi rất hẹp, không có chỗ để trở mình phía nào cả.
Numb VietNVB 22:27  Thấy thiên sứ CHÚA, lừa nằm mọp xuống, Ba-la-am nổi giận lấy gậy đánh nó.
Numb VietNVB 22:28  CHÚA mở miệng con lừa, nó nói với Ba-la-am: Tôi có làm gì mà ông đánh tôi đến ba lần?
Numb VietNVB 22:29  Ba-la-am đáp: Vì mày sỉ nhục ta. Nếu có kiếm trong tay, ta đã giết mày rồi.
Numb VietNVB 22:30  Lừa lại hỏi Ba-la-am: Tôi có phải là lừa ông vẫn cưỡi từ trước tới nay không? Tôi có thường hành động thế này không?Ông đáp: Không.
Numb VietNVB 22:31  Bấy giờ, CHÚA mở mắt Ba-la-am, ông thấy thiên sứ CHÚA đứng trên đường, tay cầm kiếm tuốt trần. Ông vội cúi đầu, úp mặt xuống đất.
Numb VietNVB 22:32  Thiên sứ CHÚA hỏi: Tại sao ngươi lại đánh con lừa ba lần? Ta đến đây ngăn cản ngươi vì ngươi đi theo con đường tà.
Numb VietNVB 22:33  Con lừa thấy ta, nên nó tránh ta ba lần. Nếu nó không tránh, ta đã giết ngươi và để cho nó sống.
Numb VietNVB 22:34  Ba-la-am nói với thiên sứ CHÚA: Tôi đã phạm tội. Tôi đã không biết thiên sứ đứng trên đường để ngăn cản tôi. Nếu thiên sứ không vừa ý, bây giờ tôi xin quay về.
Numb VietNVB 22:35  Thiên sứ của CHÚA bảo Ba-la-am: Cứ đi với họ, nhưng ngươi chỉ được nói lời nào ta bảo ngươi nói. Vậy Ba-la-am tiếp tục đi với các sứ giả của Ba-lác.
Numb VietNVB 22:36  Nghe tin Ba-la-am đến, Ba-lác ra tận một thành bên sông Ạt-nôn, ngoài biên giới để tiếp đón.
Numb VietNVB 22:37  Ba-lác hỏi Ba-la-am: Tôi đã khẩn khoản mời sao ông không đến? Tôi không đủ khả năng cho ông được vẻ vang sao?
Numb VietNVB 22:38  Ba-la-am đáp: Bây giớ tôi đã đến đây. Nhưng tôi không có quyền nói gì hết. Tôi chỉ nói những lời Đức Chúa Trời đặt trong miệng tôi.
Numb VietNVB 22:39  Và Ba-la-am đi với Ba-lác đến Ki-ri-át Hút-sốt.
Numb VietNVB 22:40  Ba-lác giết bò, cừu để cúng tế, và sai đem lễ vật cho Ba-la-am và các trưởng lão cùng đi với ông.
Numb VietNVB 22:41  Sáng hôm sau, Ba-lác đem Ba-la-am lên Ba-mốt Ba-anh là nơi từ đấy Ba-la-am có thể thấy một phần người Y-sơ-ra-ên.
Chapter 23
Numb VietNVB 23:1  Ba-la-am nói với Ba-lác: Xin xây tại đây bảy cái bàn thờ, và chuẩn bị cho tôi bảy con bò đực và bảy con chiên đực.
Numb VietNVB 23:2  Ba-lác làm theo lời Ba-la-am nói, và hai người dâng một con bò và một con chiên trên mỗi bàn thờ.
Numb VietNVB 23:3  Rồi Ba-la-am lại nói với Ba-lác: Xin Vua đứng bên của lễ thiêu mình. Tôi đi đằng này, có lẽ Đức Chúa Trời sẽ đến cho tôi gặp. Ngài bảo tôi điều gì, tôi sẽ cho vua hay. Ba-la-am đi lên một ngọn đồi.
Numb VietNVB 23:4  Đức Chúa Trời gặp Ba-la-am, và ông thưa: Tôi có lập bảy cái bàn thờ, trên mỗi cái dâng một con bò và một con chiên.
Numb VietNVB 23:5  CHÚA đặt lời trong miệng Ba-la-am, và bảo ông trở về nói với Ba-lác.
Numb VietNVB 23:6  Ba-la-am về, thấy Ba-lác đứng bên của lễ thiêu mình, cùng với các trưởng lão Mô-áp.
Numb VietNVB 23:7  Ba-la-am nói lời tiên tri như sau:Ba-lác, vua Mô-áp vời tôi đến từ A-ram,Từ những dãy núi miền Đông.Bảo tôi đến nguyền rủa Gia-cốp,Lăng mạ Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 23:8  Tôi nguyền rủa sao đượcNgười Đức Chúa Trời không nguyền rủa?Tôi lăng mạ sao đượcNgười Đức Chúa Trời không lăng mạ?
Numb VietNVB 23:9  Từ chót núi tôi thấy họ,Từ đồi cao tôi nhìn họ.Tôi thấy họ, một dân sống riêng rẽ,Không coi mình như một nước thế gian.
Numb VietNVB 23:10  Ai lường được cát bụi của Gia-cốp?Ai đếm được phần tư dân số Y-sơ-ra-ên?Cho tôi chết cái chết của người công chính,Cho tôi qua đời như họ qua đời!
Numb VietNVB 23:11  Ba-lác hỏi Ba-la-am: Ông làm gì vậy? Tôi mời ông đến nguyền rủa quân thù, nhưng ông lại đi chúc phước cho họ.
Numb VietNVB 23:12  Ông đáp: Tôi phải nói những lời CHÚA đặt trong miệng tôi.
Numb VietNVB 23:13  Sau đó, Ba-lác nói với Ba-la-am: Ông đi với tôi đến một nơi khác, tại đấy ông sẽ thấy họ, nhưng cũng chỉ thấy được một phần dân ấy, và ông sẽ nguyền rủa họ cho tôi.
Numb VietNVB 23:14  Rồi Ba-lác dẫn Ba-la-am đến cánh đồng Xô-phim, lên đỉnh núi Phích-ga, lập tại đó bảy cái bàn thờ, dâng trên mỗi bàn thờ một con bò và một con chiên.
Numb VietNVB 23:15  Ba-la-am nói với Ba-lác: Xin vua đứng đấy, bên của lễ thiêu mình, còn tôi sẽ đi đến đằng kia gặp CHÚA.
Numb VietNVB 23:16  CHÚA gặp Ba-la-am, đặt lời trong miệng ông, và bảo ông trở về nói với Ba-lác.
Numb VietNVB 23:17  Vậy Ba-la-am về, thấy Ba-lác đứng bên của lễ thiêu mình cùng với các trưởng lão Mô-áp, Ba-lác hỏi: CHÚA phán dạy thế nào?
Numb VietNVB 23:18  Ba-la-am nói lời tiên tri:Hỡi Ba-lác, hãy đứng lên nghe đây,Hỡi con trai của Xếp-bô, hãy lắng tai!
Numb VietNVB 23:19  Đức Chúa Trời đâu phải loài người để nói dối,Ngài đâu phải con loài người để đổi ý.Có bao giờ Ngài nói mà không làm?Hay hứa mà không thực hiện?
Numb VietNVB 23:20  Đây, tôi nhận được lệnh chúc phước;Ngài đã chúc phước, tôi không thay đổi được.
Numb VietNVB 23:21  Trong Gia-cốp, không thấy bất hạnh,Trong Y-sơ-ra-ên không thấy khốn cùng.CHÚA, Đức Chúa Trời ở với họ,Tiếng thét của Vua ở giữa họ.
Numb VietNVB 23:22  Đức Chúa Trời đem họ ra khỏi Ai-cậpSức mạnh họ như của bò rừng.
Numb VietNVB 23:23  Không ai bùa ếm Gia-cốp được,Cũng không ai bói toán nghịch Y-sơ-ra-ên.Vì đây là lúc nói về những việc Đức Chúa Trời đã làm cho Gia-cốp, cho Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 23:24  Họ vươn mình như sư tử cái,Vùng dậy như sư tử đựcChỉ nghỉ ngơi khi đã nuốt xong mồi,Và uống xong máu kẻ bị giết.
Numb VietNVB 23:25  Ba-lác nói với Ba-la-am: Ông không nguyền rủa họ thì thôi cũng đừng chúc phước cho họ nữa.
Numb VietNVB 23:26  Ba-la-am đáp: Tôi đã bảo là tôi chỉ được nói những điều CHÚA dạy tôi.
Numb VietNVB 23:27  Rồi, Ba-lác lại nói với Ba-la-am: Để tôi đưa ông đến một nơi khác. Có lẽ lần này Đức Chúa Trời sẽ đồng ý cho ông nguyền rủa họ tại đó.
Numb VietNVB 23:28  Và Ba-lác dẫn Ba-la-am lên đỉnh núi Phê-ô, từ đấy nhìn thấy sa mạc.
Numb VietNVB 23:29  Ba-la-am nói: Xây bảy bàn thờ và chuẩn bị bảy con bò, bảy con chiên tại đây cho tôi.
Numb VietNVB 23:30  Ba-lác làm theo lời Ba-la-am, và dâng một con bò, một con chiên trên mỗi bàn thờ.
Chapter 24
Numb VietNVB 24:1  Bây giờ, Ba-la-am thấy rõ rằng CHÚA muốn chúc phước cho Y-sơ-ra-ên, nên ông không đi tìm điềm báo như những lần trước, nhưng quay nhìn về hướng sa mạc.
Numb VietNVB 24:2  Ông thấy các trại quân Y-sơ-ra-ên, mỗi chi tộc cắm trại riêng biệt. Được thần Đức Chúa Trời cảm thúc,
Numb VietNVB 24:3  ông nói tiên tri như sau:Lời tiên tri của Ba-la-am con trai Bê-ô,Là người có đôi mắt mở ra.
Numb VietNVB 24:4  Người nghe được lời của Đức Chúa Trời,Thấy được khải tượng của CHÚA,Dù người ngã, mắt người vẫn mở.
Numb VietNVB 24:5  Lều của Gia-cốp,Trại của Y-sơ-ra-ên đẹp mắt thật,
Numb VietNVB 24:6  Như thung lũng chạy dài,Như vườn tược cạnh mé sông,Như cây trầm hương được tay Đức Chúa Trời vun trồng,Như cây bách hương mọc bên dòng nước.
Numb VietNVB 24:7  Họ sẽ có nước ngọt tràn trề dư dật,Con cháu họ không hề sống nơi khô cạn,Vua họ có uy quyền cao hơn A-gát,Vương quốc họ hùng mạnh thăng tiến.
Numb VietNVB 24:8  Đức Chúa Trời đem họ ra khỏi Ai-cập,Họ trở nên dũng mãnh như bò rừng.Họ nuốt tươi các nước cừu địch.
Numb VietNVB 24:9  Họ nghỉ ngơi như sư tử nằm ngủ,Ai dám đánh thức?Ai chúc phước họ sẽ hưởng hạnh phúc;Ai nguyền rủa họ sẽ bị tai ương!
Numb VietNVB 24:10  Đến đây, Ba-lác không ngăn được cơn giận, hai tay đập vào nhau, lên tiếng quở trách Ba-la-am: Ta gọi ông đến để nguyền rủa kẻ thù cho ta, ông lại đi chúc phước họ ba lần.
Numb VietNVB 24:11  Thôi ông về đi! Ta có hứa làm cho ông được vẻ vang nhưng Đức Chúa Trời đã không cho ông hưởng vinh dự.
Numb VietNVB 24:12  Ba-la-am đáp: Tôi đã bảo sứ giả của bệ hạ là
Numb VietNVB 24:13  dù đức vua có cho tôi cung điện đầy vàng bạc, tôi cũng không tự mình làm điều gì được cả, Chúa bảo tôi nói gì, tôi phải nói đúng như vậy.
Numb VietNVB 24:14  Bây giờ, trước khi tôi về, tôi xin nói trước những điều Y-sơ-ra-ên sẽ làm cho thần dân bệ hạ.
Numb VietNVB 24:15  Và Ba-la-am tiếp:Lời tiên tri của Ba-la-am, con trai Bê-ôLà người có đôi mắt mở ra.
Numb VietNVB 24:16  Người nghe được lời của Đức Chúa Trời,Nhận thức được cao kiến của Đấng Tối Cao,Thấy được khải tượng của CHÚA,Dù người ngã, mắt người vẫn mở.
Numb VietNVB 24:17  Điều tôi thấy chưa xảy ra ngay,Việc tôi nhìn chưa đến gần.Một ngôi sao xuất phát từ nhà Gia-cốp,Một cây trượng đến từ Y-sơ-ra-ên.Vị vua Y-sơ-ra-ên này sẽ đánh Mô-áp tan tành,Tận diệt dòng dõi loạn lạc.
Numb VietNVB 24:18  Y-sơ-ra-ên sẽ biểu dương lực lượng,Chiếm Ê-đôm và Sê-i-rơ.
Numb VietNVB 24:19  Đức Vua uy quyền xuất phát từ nhà Gia-cốp này,Sẽ tiêu diệt những người sống sót trong các thành thị.
Numb VietNVB 24:20  Sau đó, Ba-la-am nhìn thấy A-ma-léc, ông nói lời tiên tri sau đây:A-ma-léc đứng đầu các quốc gia,Nhưng cuối cùng sẽ bị diệt vong.
Numb VietNVB 24:21  Khi nhìn thấy người Kên, ông nói:Nơi ngươi ở thật an toàn,Như tổ lót trên tảng đá:
Numb VietNVB 24:22  Thế nhưng Kên sẽ bị tàn pháKhi A-sua bắt ngươi lưu đầy.
Numb VietNVB 24:23  Ông kết thúc lời tiên tri mình như sau:Ôi! Khi Đức Chúa Trời thực hiện những điều này, còn ai sống nổi?
Numb VietNVB 24:24  Tầu sẽ đến từ bờ biển Kít-timLàm cho A-sua và Hê-be khốn đốn,Rồi chính họ cũng bị tiêu hủy.
Numb VietNVB 24:25  Ba-la-am đứng dậy, đi về nhà, Ba-lác cũng lên đường.
Chapter 25
Numb VietNVB 25:1  Trong khi người Y-sơ-ra-ên ở lại Si-tim, một số người liên lạc bất chính với các phụ nữ Mô-áp.
Numb VietNVB 25:2  Các phụ nữ mời họ dự các buổi dâng sinh tế cho thần mình, họ ăn uống và quỳ lậy các thần ấy.
Numb VietNVB 25:3  Vậy Y-sơ-ra-ên tham dự vào việc cúng thần Ba-anh Phê-ô. Và CHÚA nổi giận.
Numb VietNVB 25:4  CHÚA phán bảo Môi-se: Bắt các nhà lãnh đạo dân chúng, treo họ trước mặt CHÚA, dưới ánh nắng, để cơn giận Ta nguôi đi.
Numb VietNVB 25:5  Môi-se ra lệnh cho các thẩm phán Y-sơ-ra-ên: Các anh phải xử tử tất cả những người nào dưới quyền mình đã tham dự vào việc thờ Ba-anh Phê-ô.
Numb VietNVB 25:6  Có một người Y-sơ-ra-ên đem một phụ nữ Ma-đi-an về nhà, ngay trước mặt Môi-se và cả cộng đồng Y-sơ-ra-ên, trong khi họ đang khóc lóc trước cửa Trại Hội Kiến.
Numb VietNVB 25:7  Thấy thế Phi-nê-a con trai Ê-lê-a-sa, cháu A-rôn, thầy tế lễ, liền rời cộng đồng đi lấy một cây giáo,
Numb VietNVB 25:8  chạy theo người kia vào trong trại, đâm xuyên qua cả hai người, xuyên người đàn ông Y-sơ-ra-ên và bụng người đàn bà. Tai họa liền chấm dứt.
Numb VietNVB 25:9  Số người chết trong tai họa này lên đến hai mươi bốn ngàn người.
Numb VietNVB 25:11  Phi-nê-a con trai Ê-lê-a-sa, cháu A-rôn, thầy tế lễ, đã cứu Y-sơ-ra-ên thoát khỏi cơn giận Ta, người đã vì Ta nhiệt tâm đố kỵ tà thần, nên Ta không diệt Y-sơ-ra-ên bất trung.
Numb VietNVB 25:12  Vậy con cho người hay, Ta lập giao ước hòa bình với người,
Numb VietNVB 25:13  là giao ước với người và con cháu người, họ sẽ giữ chức tế lễ mãi mãi, vì người đã nhiệt tâm với Ta, Đức Chúa Trời người, và chuộc tội cho Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 25:14  Tên của người Y-sơ-ra-ên bị giết chung với phụ nữ Ma-đi-an là Xim-ri, con trai Sa-lu, đứng đầu một họ trong chi tộc Si-mê-ôn,
Numb VietNVB 25:15  và tên của người phụ nữ Ma-đi-an bị giết là Cốt-bi, con Xu-rơ, trưởng một chi tộc trong Ma-đi-an.
Numb VietNVB 25:17  Hãy coi người Ma-đi-an là kẻ thù và đánh giết họ,
Numb VietNVB 25:18  vì họ đã coi các ngươi là thù nghịch khi dùng mưu kế dụ dỗ các ngươi thờ Phê-ô. Cốt-bi là con gái một nhà lãnh đạo Ma-đi-an, người phụ nữ bị giết trong ngày tai họa, và tai họa này xảy ra vì việc cúng thờ Phê-ô.
Chapter 26
Numb VietNVB 26:1  Sau tai họa ấy, CHÚA phán bảo Môi-se và Ê-lê-a-sa, con trai thầy tế lễ A-rôn:
Numb VietNVB 26:2  Kiểm tra dân số Y-sơ-ra-ên theo từng gia tộc, từ hai mươi tuổi trở lên, những người có thể ra trận được.
Numb VietNVB 26:3  Vậy, tại đồng bằng Mô-áp, bên sông Giô-đanh, đối diện Giê-ri-cô, Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa truyền lại lệnh ấy cho dân:
Numb VietNVB 26:4  Kiểm tra những người từ hai mươi tuổi trở lên, như CHÚA đã phán dặn Môi-se.Đây là dân số Y-sơ-ra-ên, những người ra từ Ai-cập:
Numb VietNVB 26:5  Con cháu Ru-bên, con trưởng nam của Y-sơ-ra-ên,Từ Hê-nóc sinh ra chi tộc Hê-nóc,Từ Pha-lu sinh ra chi tộc Pha-lu,
Numb VietNVB 26:6  Từ Hết-rôn sinh ra chi tộc Hết-rôn,Từ Cạt-mi sinh ra chi tộc Cạt-mi.
Numb VietNVB 26:7  Đó là các chi tộc thuộc chi tộc Ru-bên, có 43.730 người.
Numb VietNVB 26:9  Các con trai Ê-li-áp là Nê-mu-ên, Đa-than và A-bi-ram. Chính Đa-than và A-bi-ram này là hai người lãnh đạo của dân, đã theo Cô-rê nổi loạn chống Môi-se, A-rôn và cả CHÚA nữa.
Numb VietNVB 26:10  Đất hả miệng nuốt họ cùng với Cô-rê, còn 250 người theo họ bị lửa thiêu chết. Việc này xảy ra để cảnh cáo Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 26:11  Tuy nhiên, con cháu Cô-rê không bị tuyệt diệt.
Numb VietNVB 26:12  Con cháu Si-mê-ôn, tính từng chi tộc:Từ Nê-mu-ên sinh ra chi tộc Nê-mu-ên,từ Gia-min sinh ra chi tộc Gia-min,từ Gia-kin sinh ra chi tộc Gia-kin,
Numb VietNVB 26:13  từ Xê-rách sinh ra chi tộc Xê-rách,từ Sau-lơ sinh ra chi tộc Sau-lơ.
Numb VietNVB 26:14  Đó là các chi tộc của chi tộc Si-mê-ôn, có 22.200 người.
Numb VietNVB 26:15  Con cháu Gát, tính từng chi tộc:Từ Xê-phôn sinh ra chi tộc Xê-phôn,từ Ha-ghi sinh ra chi tộc Ha-ghi,từ Su-ni sinh ra chi tộc Su-ni,
Numb VietNVB 26:16  từ Óc-ni sinh ra chi tộc Óc-ni,từ Ê-ri sinh ra rộc Ê-ri,
Numb VietNVB 26:17  từ A-rốt sinh ra chi tộc A-rốt,từ A-rê-li sinh ra chi tộc A-rê-li
Numb VietNVB 26:18  Đó là các chi tộc của chi tộc Gát, có 40.500 người.
Numb VietNVB 26:19  Có hai con trai của Giu-đa là Ê-rơ và Ô-nan đã qua đời tại Ca-na-an.
Numb VietNVB 26:20  Con cháu Giu-đa, tính từng chi tộc:Từ Sê-la sinh ra chi tộc Sê-la,từ Phê-rết sinh ra chi tộc Phê-rết,từ Xê-rách sinh ra chi tộc Xê-rách,
Numb VietNVB 26:21  từ Hết-rôn sinh ra chi tộc Hết-rôn,từ Ha-mun sinh ra chi tộc Ha-num.Hết-rôn và Ha-num là con Phê-rết.
Numb VietNVB 26:22  Đó là các chi tộc của chi tộc Giu-đa, có 76.500 người.
Numb VietNVB 26:23  Con cháu Y-sa-ca, tính từng chi tộc:Từ Thô-la sinh ra chi tộc Thô-la,từ Phu-va sinh ra chi tộc Phu-va,
Numb VietNVB 26:24  từ Gia-súp sinh ra chi tộc Gia-súp,từ Sim-rôn sinh ra chi tộc Sim-rôn.
Numb VietNVB 26:25  Đó là các chi tộc của chi tộc Y-sa-ca, có 64.300 người.
Numb VietNVB 26:26  Con cháu Sa-bu-luân, tính từng chi tộc:Từ Sê-rết sinh ra chi tộc Sê-rết,từ Ê-lôn sinh ra chi tộc Ê-lôn,từ Gia-lê-ên sinh ra chi tộc Gia-lê-ên.
Numb VietNVB 26:27  Đó là các chi tộc của chi tộc Sa-bu-luân, có 60.500 người.
Numb VietNVB 26:28  Con cháu Giô-sép tính từng chi tộc, có Ma-na-se và Ép-ra-im:
Numb VietNVB 26:29  Con cháu Ma-na-se:Từ Ma-ki sinh ra chi tộc Ma-ki,từ Ga-la-át (con Ma-ki) sinh ra chi tộc Ga-la-át,
Numb VietNVB 26:30  các người của Ga-la-át là:từ Giê-xe sinh ra chi tộc Giê-xe,từ Hê-léc sinh ra chi tộc Hê-léc,
Numb VietNVB 26:31  từ Ách-ri-ên sinh ra chi tộc Ách-ri-ên,từ Si-chem sinh ra chi tộc Si-chem,
Numb VietNVB 26:32  Từ Sê-mi-đa sinh ra chi tộc Sê-mi-đa,từ Hê-phê sinh ra chi tộc Hê-phê.
Numb VietNVB 26:33  (Xê-lô-phát, con trai Hê-phê, không có con trai. Tên các con gái Xê-lô-phát là Mách-la, Nô-a, Hốt-la, Minh-ca và Thiệt-sa).
Numb VietNVB 26:34  Đó là các chi tộc của chi tộc Ma-na-se, có 52.700 người.
Numb VietNVB 26:35  Con cháu Ép-ra-im:Từ Su-thê-lách sinh ra chi tộc Su-thê-lách,từ Bê-ka sinh ra chi tộc Bê-ka,từ Tha-chan sinh ra chi tộc Tha-chan.
Numb VietNVB 26:36  Con của Su-thê-lách là Ê-ran,từ Ê-ran sinh ra chi tộc Ê-ran.
Numb VietNVB 26:37  Đó là các chi tộc của chi tộc Ép-ra-im, có 32.500 người.Các chi tộc thuộc hai chi tộc trên đều là con cháu Giô-sép.
Numb VietNVB 26:38  Con cháu Bên-gia-min, tính từng chi tộc:Từ Bê-la sinh ra chi tộc Bê-la,từ Ách-bên sinh ra chi tộc Ách-bên,từ A-chi-ram sinh ra chi tộc A-chi-ram,
Numb VietNVB 26:39  từ Sê-phu-pham sinh ra chi tộc Sê-phu-pham,từ Hu-pham sinh ra chi tộc Hu-pham.
Numb VietNVB 26:40  Các ngươi của Bê-la là A-rết và Na-a-man,từ A-rết sinh ra chi tộc A-rết,từ Na-a-man sinh ra chi tộc Na-a-man.
Numb VietNVB 26:41  Đó là các chi của chi tộc Bên-gia-min, có 45.600 người.
Numb VietNVB 26:42  Con cháu Đan, tính từng chi tộc:Từ Su-cham sinh ra chi tộc Su-cham.
Numb VietNVB 26:43  Chi tộc Đan chỉ có một chi tộc, chi tộc Su-cham có 64.400 người.
Numb VietNVB 26:44  Con cháu A-se, tính từng chi tộc:từ Im-na sinh ra chi tộc Im-na,từ Ích-vi sinh ra chi tộc Ích-vi,từ Bê-ri-a sinh ra chi tộc Bê-ri-a.
Numb VietNVB 26:45  Các người của Bê-ri-a:Từ Hê-be sinh ra chi tộc Hê-be,từ Manh-ki-ên sinh ra chi tộc Manh-ki-ên.
Numb VietNVB 26:47  Đó là các chi tộc của chi tộc A-se, có 53.400 người.
Numb VietNVB 26:48  Con cháu Nép-ta-li tính từng chi tộc:Từ Giát-sê-ên sinh ra chi tộc Giát-sê-ên,từ Gu-ni sinh ra chi tộc Gu-ni,
Numb VietNVB 26:49  từ Giê-se sinh ra chi tộc Giê-se,từ Si-lem sinh ra chi tộc Si-lem.
Numb VietNVB 26:50  Đó là các chi tộc của chi tộc Nép-ta-li, có 45.400 người.
Numb VietNVB 26:51  Vậy trong Y-sơ-ra-ên, tổng số người được kiểm tra là 601.730 người.
Numb VietNVB 26:53  Đất sẽ được chia cho họ làm cơ nghiệp căn cứ trên dân số.
Numb VietNVB 26:54  Chi tộc đông dân sẽ được nhiều đất, chi tộc ít dân sẽ được ít đất. Mỗi chi tộc sẽ nhận được đất tùy theo dân số kiểm tra.
Numb VietNVB 26:55  Người ta sẽ dùng lối bốc thăm chia đất, mỗi phần mang tên một chi tộc.
Numb VietNVB 26:56  Cơ nghiệp của họ sẽ được bắt thăm giữa những chi tộc đông dân và những chi tộc ít dân.
Numb VietNVB 26:57  Người Lê-vi cũng được kiểm tra, tính từng chi tộc:Từ Ghẹt-sôn sinh ra chi tộc Ghẹt-sôn,từ Kê-hát sinh ra chi tộc Kê-hát,từ Mê-ra-ri sinh ra chi tộc Mê-ra-ri.
Numb VietNVB 26:58  Các chi tộc khác thuộc chi tộc Lê-vi là:chi tộc Líp-ni,chi tộc Hếp-rôn,chi tộc Mách-li,chi tộc Mu-si,chi tộc Cô-rê.(Kê-hát sinh Am-ram.
Numb VietNVB 26:59  Lê-vi lúc còn ở Ai-cập sinh ra một người con gái tên là Giô-kê-bết. Am-ram cưới Giô-kê-bết sinh A-rôn, Môi-se và một người con gái tên là Mi-ri-am.
Numb VietNVB 26:60  A-rôn sinh Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma.
Numb VietNVB 26:61  Na-đáp và A-bi-hu chết khi dâng lửa lạ trước mặt CHÚA).
Numb VietNVB 26:62  Tổng số người nam thuộc chi tộc Lê-vi, từ một tháng trở lên, là 23.000 người. Họ không được kiểm tra.
Numb VietNVB 26:63  Đó là cuộc kiểm tra dân số Y-sơ-ra-ên do Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa thực hiện trong đồng bằng Mô-áp, bên kia sông Giô-đanh, đối diện Giê-ri-cô.
Numb VietNVB 26:64  Không một ai trong số những người này có tên trong kỳ kiểm tra lần trước do Môi-se và thầy tế lễ A-rôn thực hiện trong sa mạc Si-nai.
Numb VietNVB 26:65  Vì CHÚA có phán về những người trước rằng: Họ phải chết trong sa mạc, nên không còn một ai sống sót, trừ Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, và Giô-suê, con trai Nun.
Chapter 27
Numb VietNVB 27:1  Xê-lô-phát có năm người con gái: Mách-la, Hốt-la, Minh-ca và Thiệt-sa. (Xê-lô-phát là con Hê-phê, cháu Ga-la-át, chắt Ma-ki, chít Ma-na-se, thuộc chi tộc Ma-na-se. Ma-na-se là con Giô-sép).
Numb VietNVB 27:2  Các cô đến gặp Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, các nhà lãnh tụ và toàn thể nhân dân hiện diện tại cửa Trại Hội Kiến, nói:
Numb VietNVB 27:3  Cha chúng tôi qua đời trong sa mạc, không phải vì theo bè đảng Cô-rê phản nghịch CHÚA, nhưng chết vì tội lỗi mình, và không có con trai.
Numb VietNVB 27:4  Chỉ vì không có con trai nên cha tôi phải bị xóa tên khỏi gia tộc mình hay sao? Vậy, xin cho chúng tôi lãnh phần cơ nghiệp cùng với các chú các bác chúng tôi.
Numb VietNVB 27:7  Các con gái Xê-lô-phát nói đúng. Hãy chia cho họ một phần đất làm cơ nghiệp cùng với chú bác họ, là phần đáng lẽ chia cho cha họ.
Numb VietNVB 27:8  Con cũng nói với dân Y-sơ-ra-ên, nếu có ai chết không con trai, hãy chia phần cho con gái người ấy.
Numb VietNVB 27:9  Nếu người ấy không có con gái, giao phần cơ nghiệp cho anh em người ấy.
Numb VietNVB 27:11  Nếu không có chú bác, giao phần cơ nghiệp cho người bà con gần nhất. Đây là một luật áp dụng cho người Y-sơ-ra-ên, đúng như CHÚA phán dạy Môi-se.
Numb VietNVB 27:12  Sau đó, CHÚA phán với Môi-se: Con lên núi A-ba-rim ngắm xem đất Ta cho Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 27:13  Xem xong, con cũng sẽ về cùng tổ tiên như A-rôn, anh con vậy.
Numb VietNVB 27:14  Vì trong sa mạc Xin, hai con đã không vâng lệnh Ta, không tôn thánh Ta trước mặt nhân dân khi họ chống cự về việc nước. (Đây là nước Mê-ri-ba ở Ca-đê, trong sa mạc Xin.)
Numb VietNVB 27:16  Lạy CHÚA là Chúa của linh hồn mọi người, xin chỉ định một người lãnh đạo nhân dân,
Numb VietNVB 27:17  một người ở giữa họ để dẫn họ ra, đem họ vào, cho dân của CHÚA không như cừu chẳng có người chăn.
Numb VietNVB 27:18  CHÚA đáp lời Môi-se: Chọn Giô-suê, con trai Nun là người có thần trong mình. Con sẽ đặt tay trên người.
Numb VietNVB 27:19  Con sẽ dẫn người đến đứng trước thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và toàn thể nhân dân. Trước mặt họ, con sẽ ủy thác trách nhiệm cho người.
Numb VietNVB 27:20  Con trao quyền cho người và như thế, toàn thể cộng đồng Y-sơ-ra-ên sẽ vâng lệnh người.
Numb VietNVB 27:21  Người đến với thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ dùng bảng U-rim thỉnh cầu quyết định của CHÚA. Người và toàn thể cộng đồng Y-sơ-ra-ên phải tuân hành lệnh Chúa trong mọi việc, việc đi ra cũng như đi vào.
Numb VietNVB 27:22  Môi-se làm đúng như lời CHÚA phán dặn, đem Giô-suê đến đứng trước mặt thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và toàn thể nhân dân.
Numb VietNVB 27:23  Ông đặt tay trên Giô-suê và ủy thác trách nhiệm cho người, như CHÚA đã dạy ông.
Chapter 28
Numb VietNVB 28:2  truyền cho dân Y-sơ-ra-ên lệnh này: Phải cẩn thận dâng lên ta đúng kỳ hạn các lễ vật thức ăn dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng Ta.
Numb VietNVB 28:3  Con bảo họ: Đây là lễ thiêu dùng lửa dâng lên CHÚA: Mỗi ngày dâng tế lễ toàn thiêu thường xuyên, gồm hai chiên đực một tuổi không tì vết.
Numb VietNVB 28:4  Dâng một con vào buổi sáng, một con vào buổi tối,
Numb VietNVB 28:5  cùng với lễ vật ngũ cốc gồm một kí bột mì mịn trộn với một lít dầu ô-liu giã bằng cối.
Numb VietNVB 28:6  Đây là tế lễ thiêu thường xuyên đã được ấn định tại núi Si-nai, là một tế lễ dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA.
Numb VietNVB 28:7  Cũng dâng chung với chiên một lễ quán, gồm một lít rượu; đổ rượu ra trên bàn thờ trước mặt CHÚA.
Numb VietNVB 28:8  Vào lúc chạng vạn tối cũng dâng một con chiên cùng với lễ vật ngũ cốc và lễ quán giống như lễ buổi sáng. Đây là tế lễ dùng lửa dâng lên, có mùi hương đẹp lòng CHÚA.
Numb VietNVB 28:9  Mỗi ngày Sa-bát, dâng tế lễ thiêu gồm hai con chiên đực một tuổi, không vết tích, cùng với lễ quán và lễ dâng ngũ cốc, gồm hai kí bột mì mịn trộn với dầu.
Numb VietNVB 28:10  Đây là tế lễ thiêu dâng ngày Sa-bát, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên và lễ quán.
Numb VietNVB 28:11  Mỗi đầu tháng, dâng tế lễ thiêu cho CHÚA gồm hai con bò tơ đực, một con chiên đực và bảy con chiên đực một tuổi, không vết tích.
Numb VietNVB 28:12  Lễ vật ngũ cốc gồm bột mì trộn với dầu: dâng ba kí chung với mỗi con bò, hai kí chung với mỗi con chiên đực và một kí chung với mỗi con chiên con. Đây là tế lễ toàn thiêu, dùng lửa dâng lên, có mùi hương đẹp lòng CHÚA.
Numb VietNVB 28:13  Với con chiên đực, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm một kí bột mì mịn. Đây là tế lễ thiêu, dùng lửa dâng lên, có mùi hương đẹp lòng CHÚA.
Numb VietNVB 28:14  Chung với mỗi con bò, dâng một lễ quán gồm hai lít rượu. Với con chiên đực, dâng 1.20l rượu. Với mỗi con chiên con, một lít rượu. Đây là lễ thiêu dâng hằng tháng trong năm.
Numb VietNVB 28:15  Ngoài tế lễ thiêu dâng thường xuyên hằng ngày với lễ quán, dâng lên CHÚA một con dê đực để làm tế lễ chuộc tội.
Numb VietNVB 28:16  Giữ Lễ Vượt Qua của CHÚA ngày mười bốn tháng giêng.
Numb VietNVB 28:17  Từ ngày mười lăm, người ta sẽ dự lễ, ăn bánh không men trong bảy ngày.
Numb VietNVB 28:18  Vào ngày thứ nhất, các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA và không ai được làm việc hằng ngày của mình.
Numb VietNVB 28:19  Dâng cho CHÚA một tế lể thiêu, lễ vật gồm hai con bò tơ đực, một con chiên đực và bảy con chiên đực một tuổi, không vết tích.
Numb VietNVB 28:20  Chung với mỗi con bò, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm ba kí bột mì mịn trộn với dầu. Với con chiên đực, hai kí.
Numb VietNVB 28:22  Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội cho các ngươi.
Numb VietNVB 28:23  Đấy là các lễ vật phải dâng ngoài tế lễ thiêu thường xuyên vào buổi sáng.
Numb VietNVB 28:24  Trong bảy ngày, mỗi ngày đều phải dâng tế lễ thiêu như thế, dùng lửa dâng lên, có mùi hương đẹp lòng CHÚA. Các lễ vật đó được dâng ngoài các tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ quán.
Numb VietNVB 28:25  Vào ngày thứ bảy cũng phải tập họp lại thờ phượng CHÚA, không ai được làm công việc hằng ngày của mình.
Numb VietNVB 28:26  Vào ngày hoa quả đầu mùa, ngày thứ nhất trong lễ Các Tuần, khi dâng lên CHÚA ngũ cốc mới thu hoạch, các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA, không ai được làm công việc thường ngày của mình.
Numb VietNVB 28:27  Dâng hai con bò tơ đực, một con chiên đực và bảy con chiên một tuổi làm tế lễ thiêu dâng lên có mùi hương đẹp lòng CHÚA.
Numb VietNVB 28:28  Chung với mỗi con bò, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm ba kí bột mì mịn trộn với dầu. Với con chiên đực, hai kí.
Numb VietNVB 28:30  Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội cho các ngươi.
Numb VietNVB 28:31  Các lễ vật này cùng với các lễ quán phải dâng ngoài tế lễ thiêu thường xuyên, lễ dâng ngũ cốc và lễ quán. Phải dâng những sinh vật không vết tích.
Chapter 29
Numb VietNVB 29:1  Vào ngày mồng một tháng bảy, các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA, không ai được làm công việc hằng ngày của mình. Ngày ấy sẽ là ngày thổi kèn.
Numb VietNVB 29:2  Tế lễ thiêu dâng lên, có mùi hương đẹp lòng CHÚA gồm một con bò tơ đực, một con cừu đực và bảy con chiên đực một tuổi, không vết tích.
Numb VietNVB 29:3  Chung với con bò, dâng lễ vật ngũ cốc gồm ba kí bột mì mịn trộn với dầu. Với con cừu đực, hai kí.
Numb VietNVB 29:5  Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội cho các ngươi.
Numb VietNVB 29:6  Các lễ vật này dâng ngoài tế lễ thiêu dâng hằng tháng cùng lễ vật ngũ cốc, tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ vật ngũ cốc và lễ quán như đã quy định. Đấy là những lễ vật dùng lửa dâng lên có mùi hương đẹp lòng CHÚA.
Numb VietNVB 29:7  Ngày mồng mười tháng bảy các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA. Mọi người phải kiêng ăn, và không được làm việc gì hết.
Numb VietNVB 29:8  Tế lễ thiêu dâng lên có mùi hương đẹp lòng CHÚA gồm một con bò tơ đực, một con cừu đực và bảy con chiên đực một tuổi, không vết tích.
Numb VietNVB 29:9  Chung với con bò, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm ba kí bột mì mịn trộn với dầu. Với con chiên đực, hai kí.
Numb VietNVB 29:11  Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội. Lễ vật này được dâng thêm vào với tế lễ chuộc tội dâng trong ngày chuộc tội, tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ vật ngũ cốc và lễ quán.
Numb VietNVB 29:12  Ngày rằm tháng bảy các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA. Không ai được làm công việc hằng ngày của mình. Nhân dân sẽ giữ lễ bảy ngày cho CHÚA.
Numb VietNVB 29:13  Tế lễ thiêu dâng lên có mùi hương đẹp lòng CHÚA gồm mười ba con bò tơ đực, hai con chiên đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không vết tích.
Numb VietNVB 29:14  Chung với mỗi con bò, dâng một lễ ngũ cốc gồm ba kí bột mì mịn trộn với dầu. Với mỗi con chiên đực, hai kí.
Numb VietNVB 29:16  Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ quán.
Numb VietNVB 29:17  Vào ngày thứ hai, dâng mười hai con bò tơ đực, hai con chiên đực và mười bốn con cừu đực một tuổi, không vết tích.
Numb VietNVB 29:18  Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc và rượu theo số lượng đã ấn định.
Numb VietNVB 29:19  Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ quán.
Numb VietNVB 29:20  Vào ngày thứ ba, dâng mười một con bò tơ đực, hai con cừu đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không vết tích.
Numb VietNVB 29:21  Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc và rượu theo số lượng đã ấn định.
Numb VietNVB 29:22  Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ quán.
Numb VietNVB 29:23  Vào ngày thứ tư, dâng mười con bò tơ đực, hai con cừu đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không vết tích.
Numb VietNVB 29:24  Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc và rượu theo số lượng đã ấn định.
Numb VietNVB 29:25  Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ quán.
Numb VietNVB 29:26  Vào ngày thứ năm, dâng chín con bò tơ đực, hai con cừu đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không vết tích.
Numb VietNVB 29:27  Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc theo số lượng đã ấn định.
Numb VietNVB 29:28  Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ quán.
Numb VietNVB 29:29  Vào ngày thứ sáu, dâng tám con bò tơ đực, hai con cừu đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không vết tích.
Numb VietNVB 29:30  Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc theo số lượng đã ấn định.
Numb VietNVB 29:31  Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ dâng ngũ cốc và lễ quán.
Numb VietNVB 29:32  Vào ngày thứ bảy, dâng bảy con bò tơ đực, hai con chiên đực và mười bốn con cừu đực một tuổi, không vết tích.
Numb VietNVB 29:33  Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc theo số lượng đã ấn định.
Numb VietNVB 29:34  Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ dâng ngũ cốc và lễ quán.
Numb VietNVB 29:35  Vào ngày thứ tám, sẽ có một cuộc hội họp thánh, không ai được làm việc nặng nhọc.
Numb VietNVB 29:36  Lễ thiêu dâng hương vị lên CHÚA gồm một con bò đực, một con cừu đực và bảy con cừu đực một tuổi, không vết tích.
Numb VietNVB 29:37  Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc theo số lượng đã ấn định.
Numb VietNVB 29:38  Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ quán.
Numb VietNVB 29:39  Đấy là các lễ vật dâng cho CHÚA trong các ngày lễ ấn định, gồm tế lễ thiêu, lễ dâng ngũ cốc, lễ quán và tế lễ cầu an mà các con dâng để giữ trọn lời hứa nguyện hoặc dâng cách tình nguyện.
Numb VietNVB 29:40  Môi-se truyền lại cho người Y-sơ-ra-ên mọi điều CHÚA phán bảo.
Chapter 30
Numb VietNVB 30:1  Môi-se nói với các nhà lãnh đạo các chi tộc Y-sơ-ra-ên: Đây là những điều CHÚA có phán dạy:
Numb VietNVB 30:2  Nếu một người hứa nguyện với CHÚA điều gì hoặc thề sẽ giữ một lời nguyền, người ấy không được trái lời, phải làm theo lời mình đã nói.
Numb VietNVB 30:3  Khi một thiếu nữ còn sống trong nhà cha mình có lời hứa nguyện với CHÚA hoặc thề nguyện điều gì,
Numb VietNVB 30:4  và khi người cha nghe được lời thề của con mình nhưng không nói gì cả; tất cả lời thề đó vẫn có hiệu lực.
Numb VietNVB 30:5  Nhưng nếu người cha cấm con gái mình ngay trong ngày người ấy biết được; không một lời thề nào của nàng còn có hiệu lực cả. CHÚA sẽ tha thứ cho nàng vì bị cha mình cấm đoán.
Numb VietNVB 30:6  Nếu thiếu nữ lấy chồng sau khi đã có lời hứa nguyện hoặc đã buột miệng thề một điều gì,
Numb VietNVB 30:7  và khi người chồng nghe được lời thề nhưng không nói gì cả; lời thề vẫn có hiệu lực.
Numb VietNVB 30:8  Nhưng nếu người chồng cấm vợ mình ngay trong ngày người ấy biết được; người chồng đã hủy bỏ hiệu lực lời hứa nguyện, lời thề của vợ mình vì buột miệng nói ra. CHÚA sẽ tha thứ cho nàng.
Numb VietNVB 30:9  Lời thề của một bà góa hoặc một bà ly dị có hiệu lực.
Numb VietNVB 30:10  Nếu trong khi đang sống trong nhà chồng, một người đàn bà hứa nguyện hoặc thề sẽ giữ một lời nguyền,
Numb VietNVB 30:11  và khi người chồng nghe được lời thề nhưng không nói năng cấm đoán gì cả; tất cả lời thề vẫn còn có hiệu lực.
Numb VietNVB 30:12  Nhưng nếu người chồng hủy bỏ lời thề ngay trong ngày mình biết được, không một lời thề nào của nàng còn có hiệu lực cả. CHÚA sẽ tha thứ cho nàng vì chồng nàng hủy bỏ.
Numb VietNVB 30:13  Vậy, người chồng có quyền xác nhận hay hủy bỏ lời hứa nguyện hoặc lời thề nguyền của vợ mình.
Numb VietNVB 30:14  Nhưng nếu người chồng không nói gì trong một ngày tròn, tức là đã xác nhận lời thề của vợ mình. Người chồng xác nhận bằng sự yên lặng, dù đã biết được lời thề ấy.
Numb VietNVB 30:15  Nếu người chồng biết được, nhưng đợi một thời gian mới hủy bỏ lời thề, người chồng phải gánh chịu trách nhiệm về lỗi vợ mình mắc phải.
Numb VietNVB 30:16  Đấy là những quy tắc CHÚA truyền cho Môi-se về mối liên hệ giữa vợ chồng, cha con khi người con gái còn sống trong nhà cha mình.
Chapter 31
Numb VietNVB 31:2  Hãy báo thù người Ma-đi-an cho Y-sơ-ra-ên. Rồi con sẽ được về cùng tổ tiên.
Numb VietNVB 31:3  Vậy, Môi-se bảo dân: Vũ trang một số nhân dân để đi đánh dân Ma-đi-an, thi hành lệnh báo thù của CHÚA.
Numb VietNVB 31:4  Mỗi chi tộc sẽ gửi một ngàn quân ra trận.
Numb VietNVB 31:5  Như vậy, trong Y-sơ-ra-ên, mỗi chi tộc chọn một ngàn người, mười hai ngàn người được vũ trang để ra trận.
Numb VietNVB 31:6  Môi-se ra lệnh xuất quân, một ngàn quân mỗi chi tộc, cùng với Phi-nê-a, con thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, đem theo các dụng cụ thánh và cầm kèn đồng thổi báo hiệu.
Numb VietNVB 31:7  Họ tấn công Ma-đi-an theo lệnh CHÚA truyền cho Môi-se, giết tất cả những người đàn ông,
Numb VietNVB 31:8  kể cả năm vua Ma-đi-an là Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ, Hu-rơ và Rê-ba. Ba-la-am, con trai Bê-ô cũng bị chém chết.
Numb VietNVB 31:9  Người Y-sơ-ra-ên bắt đàn bà, trẻ con Ma-đi-an, thu chiến lợi phẩm gồm bò, cừu và của cải.
Numb VietNVB 31:10  Họ đốt hết các thành, trang trại của người Ma-đi-an.
Numb VietNVB 31:11  Họ lấy các chiến lợi phẩm, người và súc vật,
Numb VietNVB 31:12  đem tất cả người đã bắt được và của cải đã thu được về cho Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và nhân dân Y-sơ-ra-ên đang cắm trại tại đồng bằng Mô-áp, bên sông Giô-đanh, đối diện Giê-ri-cô.
Numb VietNVB 31:13  Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và tất cả các nhà lãnh đạo cộng đồng nhân dân đi ra bên ngoài trại đón họ.
Numb VietNVB 31:14  Môi-se giận các sĩ quan chỉ huy quân đội lắm, những người chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm quân, vừa từ chiến trường về.
Numb VietNVB 31:15  Ông hỏi họ: Tại sao các ông tha chết cho những người đàn bà này?
Numb VietNVB 31:16  Họ chính là những người theo mưu của Ba-la-am, dụ dỗ người Y-sơ-ra-ên từ bỏ CHÚA, cúng thờ Phê-ô, và vì thế dân Chúa bị tai họa.
Numb VietNVB 31:17  Bây giờ, phải giết hết những đứa con trai và những người đàn bà đã nằm với đàn ông.
Numb VietNVB 31:18  Nhưng tha chết cho các trinh nữ, và có thể giữ họ cho mình.
Numb VietNVB 31:19  Còn những ai đã giết người hoặc đụng vào xác chết, phải ở lại bên ngoài trại bảy ngày. Vào ngày thứ ba và ngày thứ bảy, phải tẩy uế mình và người mình bắt được.
Numb VietNVB 31:20  Cũng phải tẩy sạch áo xống, đồ dùng bằng da, bằng lông dê và bằng gỗ.
Numb VietNVB 31:21  Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nói với các chiến sĩ: Đây là quy tắc CHÚA đã truyền cho Môi-se:
Numb VietNVB 31:23  và bất cứ vật gì không cháy, phải đưa vào lửa đốt; và cũng phải dùng nước tẩy uế cho sạch các vật ấy nữa. Còn vật gì không chịu được lửa thì chỉ cần tẩy cho sạch bằng nước tẩy uế.
Numb VietNVB 31:24  Vào ngày thứ bảy, sau khi giặt áo xống, anh em sẽ được sạch và được vào trại.
Numb VietNVB 31:26  Con sẽ cùng thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và các chi tộc trưởng kiểm kê các chiến lợi phẩm, cả người lẫn súc vật.
Numb VietNVB 31:27  Rồi đem chia các chiến lợi phẩm ra làm hai phần, một phần thuộc về các chiến sĩ đã ra trận, phần kia thuộc về nhân dân.
Numb VietNVB 31:28  Trong phần của các chiến sĩ, phải lấy một phần năm trăm đem dâng cho Chúa, dù là người, bò, lừa hay cừu.
Numb VietNVB 31:29  Đem phần thu được để dâng cho CHÚA, giao cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa.
Numb VietNVB 31:30  Trong phần của nhân dân, lấy một phần năm mươi, dù là người, bò, lừa, cừu hay súc vật gì khác, giao cho người Lê-vi, là những người có trách nhiệm coi sóc Trại Hội Kiến của CHÚA.
Numb VietNVB 31:31  Vậy, Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa làm theo mọi điều CHÚA phán dạy Môi-se.
Numb VietNVB 31:32  Số chiến lợi phẩm do các chiến sĩ thu được gồm có 675.000 con chiên,
Numb VietNVB 31:36  Vậy, phân nửa thuộc các chiến sĩ gồm:337.500 Con chiên,
Numb VietNVB 31:41  Môi-se giao cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa phần dâng cho Chúa, như CHÚA đã dặn ông.
Numb VietNVB 31:42  Phân nửa thuộc phần dân Y-sơ-ra-ên được Môi-se chia cho (phân nửa kia thuộc các chiến sĩ,
Numb VietNVB 31:43  phân nửa nầy thuộc về nhân dân), gồm 337.500 con chiên,
Numb VietNVB 31:47  Môi-se lấy một phần năm mươi trong số chiến lợi phẩm thuộc nhân dân, cả người lẫn súc vật, giao cho người Lê-vi là những người có trách nhiệm coi sóc Trại Hội Kiến của CHÚA, như CHÚA đã dặn ông.
Numb VietNVB 31:48  Các sĩ quan chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm quân sĩ đến gặp Môi-se,
Numb VietNVB 31:49  nói: Chúng tôi, là các đầy tớ của ông, có kiểm điểm quân số, và thấy không thiếu một ai cả.
Numb VietNVB 31:50  Chúng tôi cũng có mang đến các nữ trang bằng vàng đã thu được: băng đeo tay, xuyến, nhẫn, hoa tai và dây chuyền. Chúng tôi xin dâng cho CHÚA để làm lễ chuộc tội.
Numb VietNVB 31:51  Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nhận số vàng.
Numb VietNVB 31:52  Tổng số vàng do các sĩ quan chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm dâng cho CHÚA là 200kg.
Numb VietNVB 31:53  Các chiến sĩ đều có thu chiến lợi phẩm riêng cho mình.
Numb VietNVB 31:54  Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nhận số vàng từ tay các sĩ quan chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm, rồi đem để vào Trại Hội Kiến, để CHÚA luôn nhớ đến Y-sơ-ra-ên.
Chapter 32
Numb VietNVB 32:1  Người của hai chi tộc Ru-bên và Gát có rất nhiều súc vật. Khi thấy đất Gia-ê-xe và Ga-la-át là nơi thích hợp cho việc chăn nuôi,
Numb VietNVB 32:2  họ đến gặp Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và các nhà lãnh đạo nhân dân, nói:
Numb VietNVB 32:3  A-ta-rốt, Đi-bôn, Gia-ê-xe, Nim-ra, Hết-bôn, Ê-lê-a-sê, Sê-ham, Nê-ô và Bê-ôn,
Numb VietNVB 32:4  các miền CHÚA đã chinh phục trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, rất thuận lợi cho việc chăn nuôi, và chúng tôi lại có nhiều gia súc.
Numb VietNVB 32:5  Nếu chúng tôi được quý ông thương tình, xin cho chúng tôi đất này làm sản nghiệp, không cần phải đi qua sông Giô-đanh.
Numb VietNVB 32:6  Môi-se hỏi người Gát và Ru-bên: Anh em muốn ngồi đây trong khi anh chị em khác đi chiến đấu sao?
Numb VietNVB 32:7  Sao anh em làm cho anh chị em Y-sơ-ra-ên nản lòng, không muốn đi vào đất CHÚA đã cho họ?
Numb VietNVB 32:8  Tại Ca-đê Ba-nê-a, cha ông của anh em cũng đã làm y như vậy khi tôi sai họ đi do thám xứ Ca-na-an.
Numb VietNVB 32:9  Sau khi đến thung lũng Ếch-côn nhìn thấy xứ, họ làm cho người Y-sơ-ra-ên nhụt chí, không muốn đi vào xứ mà CHÚA đã cho họ.
Numb VietNVB 32:11  Trong những người ra đi từ Ai-cập, không một ai từ hai mươi tuổi trở lên được thấy xứ mà Ta đã thề hứa cho Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, vì họ đã không hết lòng theo Ta;
Numb VietNVB 32:12  ngoại trừ Ca-lép con trai Giê-phu-nê, người Kê-nít, và Giô-suê con trai Nun, vì họ hết lòng theo Ta.
Numb VietNVB 32:13  CHÚA giận Y-sơ-ra-ên nên Ngài bắt họ phải đi lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm, cho đến khi thế hệ làm điều tà ác trước mắt Chúa chết hết.
Numb VietNVB 32:14  Và bây giờ, anh em là dòng giống của những người tội lỗi lại nổi lên, thay cho cha ông mình, làm cho CHÚA thêm giận Y-sơ-ra-ên.
Numb VietNVB 32:15  Nếu anh em từ bỏ Chúa, Ngài sẽ để cho toàn dân ở lại trong sa mạc, và chính anh em là nguyên do làm cho dân tộc bị tiêu diệt.
Numb VietNVB 32:16  Nhưng họ đến gần Môi-se, nói: Chúng tôi chỉ xin dựng chuồng cho bầy súc vật và xây thành cho con cái chúng tôi ở đây.
Numb VietNVB 32:17  Còn chúng tôi sẽ mang vũ khí đi trước toàn dân, cho đến khi mọi người đã vào đất mình. Trong khi đó gia đình chúng tôi được sống an toàn trong thành lũy kiên cố, không bị dân địa phương làm hại.
Numb VietNVB 32:18  Chúng tôi sẽ không về nhà cho đến khi nào mọi người Y-sơ-ra-ên khác đều nhận được cơ nghiệp mình.
Numb VietNVB 32:19  Vì chúng tôi đã nhận phần cơ nghiệp bên bờ phía đông sông Giô-đanh, nên sẽ không có phần gì với những người khác bên kia sông cả.
Numb VietNVB 32:20  Bấy giờ, Môi-se bảo họ: Nếu anh em làm đúng như thế, nếu anh em mang vũ khí ra trận trước mặt CHÚA,
Numb VietNVB 32:21  nếu mọi người cầm vũ khí đi qua sông Giô-đanh trước mặt CHÚA, cho đến khi Ngài đuổi hết quân thù đi,
Numb VietNVB 32:22  thì khi CHÚA đã chinh phục xong lãnh thổ, anh em mới được về, và mới được miễn trách nhiệm với Chúa và với Y-sơ-ra-ên. Và trước mặt CHÚA, đất này lúc đó sẽ thuộc về quyền sở hữu của anh em.
Numb VietNVB 32:23  Nhưng nếu anh em không làm đúng như thế, anh em sẽ mắc tội với CHÚA, và nhớ rằng tội này sẽ kết buộc anh em.
Numb VietNVB 32:24  Bây giờ, hãy xây thành cho con cái mình ở, dựng chuồng cho bầy súc vật, nhưng anh em phải nhớ làm điều mình đã hứa.
Numb VietNVB 32:25  Người Gát và Ru-bên đáp lời Môi-se: Các tôi tớ ông xin làm đúng như lời Chúa tôi dặn bảo.
Numb VietNVB 32:26  Vợ con và súc vật của chúng tôi sẽ ở lại đây, trong những thành của đất Ga-la-át.
Numb VietNVB 32:27  Còn các tôi tớ ông, tất cả những người được vũ trang để chiến đấu, sẽ qua sông để ra trận trước mặt CHÚA, như chúa tôi đã nói.
Numb VietNVB 32:28  Sau đó, Môi-se chỉ thị cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê con của Nun và các trưởng chi tộc Y-sơ-ra-ên về việc này.
Numb VietNVB 32:29  Ông nói: Nếu tất cả những người được vũ trang để chiến đấu của chi tộc Gát và Ru-bên cùng qua sông Giô-đanh với các ông trước mặt CHÚA, thì khi lãnh thổ đã bình định xong, các ông sẽ cho họ đất Ga-la-át làm cơ nghiệp.
Numb VietNVB 32:30  Nhưng nếu họ không đi qua cùng với các ông để chiến đấu, họ chỉ được phần cơ nghiệp chung với các ông trong xứ Ca-na-an.
Numb VietNVB 32:31  Người Gát và Ru-bên nói: Điều CHÚA truyền dạy, các tôi tớ ông xin tuân hành!
Numb VietNVB 32:32  Chúng tôi sẽ mang vũ khí qua sông, vào đất Ca-na-an trước mặt CHÚA, nhưng đất chúng tôi nhận làm cơ nghiệp sẽ ở bên này sông Giô-đanh.
Numb VietNVB 32:33  Vậy, Môi-se cấp cho chi tộc Gát, chi tộc Ru-bên và phân nửa chi tộc Ma-na-se (con Giô-sép) đất của Si-hôn vua A-mô-rít và của Óc vua Ba-san, toàn lãnh thổ với các thành thị và thôn ấp chung quanh.
Numb VietNVB 32:34  Người Gát xây cất Đi-hôn, A-ta-rốt, A-rô-e,
Numb VietNVB 32:36  Bết Nim-ra và Bết Ha-ran là những thành có hào lũy kiên cố. Họ cũng dựng chuồng cho bầy gia súc.
Numb VietNVB 32:37  Người Ru-bên cất tại Hết-bôn, Ê-lê-a-lê, Ki-ri-a-tha-im,
Numb VietNVB 32:38  Nê-bô, Ba-anh Mê-ôn (những tên này bị đổi), và Síp-ma. Họ đặt tên mới cho các thành vừa tái thiết.
Numb VietNVB 32:39  Con cháu Ma-ki (con Ma-na-se) đi đánh chiếm Ga-la-át, đuổi người A-mô-rít đi.
Numb VietNVB 32:40  Vậy Môi-se cấp cho con cháu Ma-ki (con Ma-na-se) đất Ga-la-át, và họ sinh sống tại đó.
Numb VietNVB 32:41  Giai-rơ (con Ma-na-se) đi chiếm một số thôn ấp, đặt tên là thôn Giai-rơ.
Numb VietNVB 32:42  Nô-bách chiếm Kê-nát và các thôn ấp chung quanh, rồi đặt tên là Nô-bách (theo tên mình).
Chapter 33
Numb VietNVB 33:1  Lộ trình và các địa điểm hạ trại từ Ai-cập đến Giô-đanh.
Numb VietNVB 33:2  Đây là các địa điểm dân Y-sơ-ra-ên hạ trại sau khi rời Ai-cập tiến lên theo hàng ngũ dưới quyền chỉ huy của Môi-se và A-rôn. Môi-se vâng lịnh CHÚA ghi chép cuộc hành trình của nhân dân theo thứ tự các địa điểm hạ trại. Đây là các chặn đường:
Numb VietNVB 33:3  dân Y-sơ-ra-ên từ Ram-se lên đường ngày mười lăm tháng giêng, một ngày sau Lễ Vượt Qua, họ anh dũng kéo ra trước mắt toàn dân Ai-cập.
Numb VietNVB 33:4  Dân ấy đang chôn cất các con trai đầu lòng mà CHÚA đã đánh hạ, vì Chúa đã đoán phạt các thần của họ.
Numb VietNVB 33:5  Sau khi bỏ Ram-se, dân Y-sơ-ra-ên hạ trại tại Su-cốt;
Numb VietNVB 33:6  rời Su-cốt và hạ trại tại Ê-tam; nơi giáp ranh sa mạc;
Numb VietNVB 33:7  rời Ê-tam quay lại Phi-Ha-hi-rốt, phía đông Ba-an Sê-phôn, và hạ trại tại Mích-đôn.
Numb VietNVB 33:8  Họ rời Phi-Ha-hi-rốt, đi qua giữa biển mà vào sa mạc; đi được ba ngày trong sa mạc Ê-tam, họ hạ trại tại Ma-ra.
Numb VietNVB 33:9  Rời Ma-ra họ đến Ê-lim; là nơi có mười hai dòng suối và bảy mươi cây chà là và hạ trại tại đó.
Numb VietNVB 33:10  Rời Ê-lim, họ hạ trại bên bờ Hồng-hải;
Numb VietNVB 33:11  rời bờ Hồng Hải họ đóng trại trong sa mạc Sin.
Numb VietNVB 33:12  Rời sa mạc Sin họ đóng trại tại Đáp-ca.
Numb VietNVB 33:14  Rời A-lúc họ hạ trại tại Rê-phi-đim, là nơi không có nước ngọt cho người ta uống.
Numb VietNVB 33:15  Rời Rê-phi-đim họ hạ trại trong sa mạc Si-nai.
Numb VietNVB 33:16  Rời sa mạc Si-nai họ hạ trại tại Kíp-rốt-Ha-tha-va.
Numb VietNVB 33:17  Rời Kíp-rốt-Ha-tha-va họ hạ trại tại Hát-sê-rốt.
Numb VietNVB 33:18  Rời Hát-sê-rốt họ hạ trại tại Rít-ma.
Numb VietNVB 33:19  Rời Rít-ma họ hạ trại tại Ri-môn-Phê-rết.
Numb VietNVB 33:20  Rời Ri-môn-Phê-rết họ hạ trại tại Líp-ma.
Numb VietNVB 33:22  Rời Ri-sa họ hạ trại tại Kê-hê-la-tha.
Numb VietNVB 33:23  Rời Kê-hê-la-tha họ hạ trại tại núi Sê-phe.
Numb VietNVB 33:24  Rời núi Sê-phe họ hạ trại tại Ha-ra-đa.
Numb VietNVB 33:25  Rời Ha-ra-đa họ hạ trại tại Mác-hê-lốt.
Numb VietNVB 33:26  Rời Mác-hê-lốt họ hạ trại tại Ta-hát.
Numb VietNVB 33:29  Rời Mít-ga họ hạ trại tại Hách-mô-na.
Numb VietNVB 33:30  Rời Hách-mô-na họ hạ trại tại Mô-sê-rốt.
Numb VietNVB 33:31  Rời Mô-sê-rốt họ hạ trại tại Bê-nê-Gia-can.
Numb VietNVB 33:32  Rời Bê-nê-Gia-can họ hạ trại tại Hô-ghi-gát.
Numb VietNVB 33:33  Rời Hô-ghi-gát họ hạ trại tại Dốt-ba-tha.
Numb VietNVB 33:34  Rời Dốt-ba-tha họ hạ trại tại Áp-rô-na.
Numb VietNVB 33:35  Rời Áp-rô-na họ hạ trại tại Ê-xi-ôn-Ghê-be.
Numb VietNVB 33:36  Rời Ê-xi-ôn-Ghê-be họ hạ trại trong sa mạc Xin, nghĩa là tại Ca-đê.
Numb VietNVB 33:37  Rời Ca-đê họ hạ trại tại núi Hô-rơ, ở chót đầu xứ Ê-đôm.
Numb VietNVB 33:38  Theo lệnh CHÚA, thầy tế lễ A-rôn leo lên núi Hô-rơ rồi qua đời ngày mồng một tháng năm năm thứ bốn mươi sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập.
Numb VietNVB 33:39  A-rôn hưởng thọ được một trăm hai mươi ba tuổi khi qua đời trên núi Hô-rơ.
Numb VietNVB 33:40  Vua A-hát người Ca-na-an qua sông tại miền nam Ca-na-an đã nghe tin dân Y-sơ-ra-ên sắp đến nơi.
Numb VietNVB 33:41  Rời núi Hô-rơ họ hạ trại tại Xa-mô-na.
Numb VietNVB 33:44  Rời Ô-bốt họ hạ trại tại Y-giê-A-ba-rim, trên bờ cõi Mô-áp.
Numb VietNVB 33:45  Rời Y-giê-A-ba-rim, họ hạ trại tại Đi-bôn-Gát.
Numb VietNVB 33:46  Rời Đi-bôn-Gát, họ hạ trại tại Anh-môn Đíp-lát-tha-im.
Numb VietNVB 33:47  Rời Anh-môn Đíp-lát-tha-im, họ hạ trại trên núi A-ba-rim, gần Nê-bô.
Numb VietNVB 33:48  Rời núi A-ba-rim, họ hạ trại trong đồng ruộng Mô-áp bên sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô.
Numb VietNVB 33:49  Tại đồng bằng Mô-áp, họ hạ trại dọc sông Giô-đanh từ Bết-giê-si-mốt cho đến A-bên Si-tim.
Numb VietNVB 33:50  Trong đồng bằng Mô-áp bên sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô, CHÚA bảo Môi-se:
Numb VietNVB 33:51  Con hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên, khi các ngươi qua sông Giô-đanh để vào xứ Ca-na-an,
Numb VietNVB 33:52  hãy đuổi tất cả dân cư trong xứ đi. Hãy tiêu diệt các tượng chạm và tượng đúc và phá đổ tất cả các nơi cao của họ.
Numb VietNVB 33:53  Hãy chiếm hữu đất đai và định cư tại đó vì Ta đã ban cho các ngươi chiếm hữu xứ ấy.
Numb VietNVB 33:54  Hãy bắt thăm chia đất theo chi tộc họ, cho nhóm đông được hưởng miếng đất lớn, nhóm nhỏ được hưởng miếng đất nhỏ, và được làm chủ miếng đất ấy. Hãy phân phối đất đai theo tông chi tộc.
Numb VietNVB 33:55  Nhưng nếu các ngươi không đuổi dân cư trong xứ, những kẻ các ngươi cho ở lại sẽ như gai đâm trong mắt, chông xóc vào hông. Họ sẽ gây rối cho các ngươi trong xứ các ngươi ở.
Numb VietNVB 33:56  Lúc ấy, Ta sẽ làm cho các ngươi điều Ta đã làm cho họ.
Chapter 34
Numb VietNVB 34:1  CHÚA bảo Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên:
Numb VietNVB 34:2  Khi các ngươi vào Ca-na-an là đất Ta cho làm sản nghiệp, giới hạn đất ấy sẽ được ấn định như sau:
Numb VietNVB 34:3  Về phía nam, đất gồm có sa mạc Xin, chạy dọc theo ranh nước Ê-đôm. Khởi đầu từ mũi Biển Chết về phía đông,
Numb VietNVB 34:4  Biên giới phía nam của dốc núi Ạc-ráp-bim, tiếp tục chạy dài đến sa mạc Xin, sâu xuống đến phía nam của Ca-đê Ba-nê-a rồi từ đấy chạy đến Hát-sa-át-đa, ngang qua Át-môn.
Numb VietNVB 34:5  Từ Át-môn, biên giới sẽ quay qua suối Ai-cập và dừng lại ở biển Địa Trung Hải.
Numb VietNVB 34:6  Biên giới phía tây là bờ Địa Trung Hải.
Numb VietNVB 34:7  Biên giới phía bắc chạy từ Địa Trung Hải cho đến núi Hô-rơ.
Numb VietNVB 34:8  Từ đấy vạch một đường đến lối vào Ha-mát, qua sông Xê-đát,
Numb VietNVB 34:10  Biên giới phía đông sẽ bắt đầu từ Hát-sa-ê-nan chạy đến Sê-pham,
Numb VietNVB 34:11  từ đó xuống Ríp-lát về phía đông của A-in, rồi tiếp tục xuống nữa cho đến khi giáp phía đông của biển Ki-nê-rết.
Numb VietNVB 34:12  Từ biển Ki-nê-rết, biên giới chạy dọc theo sông Giô-đanh và chấm dứt ở Biển Chết.
Numb VietNVB 34:13  Môi-se nói: Đó là đất của chín chi tộc mới. Họ sẽ bắt thăm chia đất theo lệnh của CHÚA,
Numb VietNVB 34:14  vì chi tộc Ru-bên, Gát và phân nửa chi tộc Ma-na-se
Numb VietNVB 34:15  đã nhận phần đất của mình bên bờ phía đông sông Giô-đanh.
Numb VietNVB 34:17  Sau đây là những người có trách nhiệm chia đất: Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai của Nun,
Numb VietNVB 34:19  Đây là danh sách các nhà lãnh đạo các chi tộc:Ca-lép, con trai Giê-phu-nêđại diện Giu-đa.
Numb VietNVB 34:20  Sê-mu-ên, con A-mi-hút,đại diện cho chi tộc Si-mê-ôn;
Numb VietNVB 34:21  Ê-li-đát, con Kít-long,đại diện Bên-gia-min;
Numb VietNVB 34:24  Kê-mu-ên, con Síp-tan,đại diện Ép-ra-im.
Numb VietNVB 34:25  Ê-li-sa-phan, con Phác-nát,đại diện Sa-bu-luân,
Numb VietNVB 34:28  Phê-đa-ên, con A-mi-hút,đại diện chi tộc Nép-ta-li.
Numb VietNVB 34:29  Đó là những người Ta chỉ định đứng ra chia đất Ca-na-an cho người Y-sơ-ra-ên.
Chapter 35
Numb VietNVB 35:1  Tại đồng bằng Mô-áp bên bờ sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô, CHÚA phán dạy Môi-se:
Numb VietNVB 35:2  Con hãy ra lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên tặng người Lê-vi các thành cho họ ở, lấy từ trong sản nghiệp dân Y-sơ-ra-ên sẽ được sở hữu. Hãy cho họ các đồng cỏ để chăn nuôi xung quanh các thành ấy.
Numb VietNVB 35:3  Như thế họ sẽ có các thành để cư trú và các đồng cỏ để chăn nuôi bầy bò bầy cừu và tất cả các gia súc khác.
Numb VietNVB 35:4  Các bãi cỏ chăn nuôi xung quanh các thành mà các ngươi tặng người Lê-vi chiều rộng phải được năm trăm mét tính từ các bức tường của thành.
Numb VietNVB 35:5  Ngoài thành, hãy đo một ngàn mét về phía đông, một ngàn mét về phía nam một ngàn mét về phía tây, một ngàn mét về phía bắc, lấy thành làm trung tâm. Họ sẽ được vùng đất ấy để chăn nuôi.
Numb VietNVB 35:6  Trong số các thành các ngươi tặng người Lê-vi phải dành sáu thành làm thành ẩn náu ngõ hầu kẻ sát nhân có thể trốn vào. Ngoài ra các ngươi hãy tặng họ bốn mươi hai thành khác.
Numb VietNVB 35:7  Như vậy các ngươi sẽ tặng người Lê-vi bốn mươi tám thành tất cả luôn cả đất xung quanh thành làm bãi cỏ chăn nuôi.
Numb VietNVB 35:8  Các thành các ngươi tặng người Lê-vi lấy trong lãnh thổ dân Y-sơ-ra-ên phải tỷ lệ với cơ nghiệp của mổi chi tộc: chi tộc nào có nhiều thành hãy lấy nhiều, chi tộc nào có ít thành hãy lấy ít.
Numb VietNVB 35:10  Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Khi các ngươi vượt sông Giô-đanh vào xứ Ca-na-an,
Numb VietNVB 35:11  hãy chọn một số thành làm thành ẩn náu để kẻ nào ngộ sát có thể trú ẩn.
Numb VietNVB 35:12  Các thành ấy sẽ làm nơi trú ẩn để tránh người báo thù ngõ hầu kẻ nào bị tố cáo giết người khỏi phải chết trước khi ra tòa của dân chúng.
Numb VietNVB 35:13  Sáu thành này mà các ngươi cho người Lê-vi sẽ làm các thành ẩn náu cho các ngươi:
Numb VietNVB 35:14  ba thành bên tả ngạn sông Giô-đanh và ba thành trong xứ Ca-na-an sẽ làm thành ẩn náu.
Numb VietNVB 35:15  Sáu thành ấy sẽ là nơi ẩn náu cho dân Y-sơ-ra-ên, cho các ngoại kiều và cho các dân nào khác sống giữa dân Y-sơ-ra-ên ngõ hầu kẻ nào ngộ sát có thể trốn đến đó.
Numb VietNVB 35:16  Nếu một người dùng một vật bằng sắt đả thương trí mạng kẻ khác, nó phạm tội sát nhân; kẻ sát nhân sẽ bị xử tử.
Numb VietNVB 35:17  Hoặc nếu kẻ nào cầm trong tay một cục đá có thể giết người và nó đả thương trí mạng người khác, thì nó phạm tội sát nhân; kẻ sát nhân sẽ bị xử tử.
Numb VietNVB 35:18  Hoặc nếu kẻ nào cầm trong tay một dụng cụ bằng gỗ có thể giết người, nếu nó đả thương người khác thì nó phạm tội sát nhân sẽ bị xử tử.
Numb VietNVB 35:19  Người báo thù huyết sẽ xử tử kẻ sát nhân; khi nào gặp kẻ sát nhân người phải giết nó đi.
Numb VietNVB 35:20  Nếu kẻ có gian ý định tâm xô lấn người khác hoặc dụng ý liệng vật gì trúng người đó khiến người đó chết đi
Numb VietNVB 35:21  hoặc vì sự thù địch mà đánh người bằng tay vì đó người này chết đi thì kẻ đánh người sẽ bị xử tử vì nó đã giết người. Người thù huyết sẽ xử tử kẻ sát nhân khi gặp nó.
Numb VietNVB 35:22  Nhưng nếu không do thù hằn một người thình lình xô lấn người khác hoặc vô tình ném vật gì trúng người ấy,
Numb VietNVB 35:23  hoặc vì không thấy người kia mà thả xuống một tảng đá trúng nhằm người, nếu người ấy chết dù người ấy không phải là kẻ cừu thù và đương sự không dụng ý làm hại người,
Numb VietNVB 35:24  hội đồng nhân dân phải xét xử giữa đương sự và người báo thù huyết căn cứ theo các qui luật này.
Numb VietNVB 35:25  Hội đồng nhân dân phải bảo vệ kẻ bị người báo thù huyết tố cáo phạm tội giết người và cho người ấy trở về thành ẩn náu mà người ấy đã đến trốn. Người ấy phải ở đó cho đến khi thầy tế lễ tối cao đã được xức dầu thánh qua đời.
Numb VietNVB 35:26  Nhưng nếu kẻ sát nhân ra khỏi giới hạn ở ngoài thành ẩn náu, là nơi người đã đến trốn
Numb VietNVB 35:27  và nếu người báo thù huyết bắt gặp, giết nó ở ngoài giới hạn ở ngoài thành ẩn náu thì người báo thù huyết không mắc tội sát nhân;
Numb VietNVB 35:28  kẻ sát nhân phải ở trong thành ẩn náu cho đến khi thầy tế lễ tối cao qua đời. Sau khi thầy tế lễ tối cao qua đời kẻ sát nhân ấy được trở về với sản nghiệp mình.
Numb VietNVB 35:29  Bất luận các ngươi sống nơi nào đều phải áp dụng lề luật này cho mình và cho các thế hệ tương lai.
Numb VietNVB 35:30  Nếu ai giết người, phải cứ theo lời khai của các nhân chứng mà xử tử kẻ sát nhân, nhưng một nhân chứng không đủ để kết án xử tử.
Numb VietNVB 35:31  Các ngươi không được nhận tiền chuộc mạng của một tên sát nhân đã đủ bằng chứng mắt tội và đáng chết vì nó buộc phải bị xử tử.
Numb VietNVB 35:32  Các ngươi đừng nhận tiền chuộc mạng của người đã trốn đến một thành ẩn náu và cho phép nó trở về sống trong sản nghiệp mình trước khi thầy tế lễ tối cao qua đời.
Numb VietNVB 35:33  Đừng làm ô uế đất đai mà các ngươi đang sinh sống; máu đào đổ ra làm ô uế đất đai và không thể nào chuộc tội cho đất đai đã thấm máu đào đã đổ ra. Phải dùng máu của kẻ đổ máu người mới chuộc tội cho đất đai được.
Numb VietNVB 35:34  Đừng làm ô uế đất đai mà các ngươi sinh sống và cũng là nơi Ta ngự vì Ta là CHÚA ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên.
Chapter 36
Numb VietNVB 36:1  Các gia trưởng Ga-la-át là con trai Ma-ki, cháu Ma-na-se trong dòng hậu tự Giô-sép, đến thưa chuyện với Môi-se và các nhà lãnh đạo và các trưởng chi tộc trong dân Y-sơ-ra- ên.
Numb VietNVB 36:2  Họ nói: Khi CHÚA truyền lệnh cho ngài chia đất đai cho dân Y-sơ-ra-ên làm sản nghiệp, Ngài đã ra lệnh cho chúa tôi ban sản nghiệp của anh Sê-lô-phát chúng tôi cho các con gái anh.
Numb VietNVB 36:3  Nếu các cô ấy kết hôn với những người Y-sơ-ra-ên trong các chi tộc khác thì sản nghiệp của chúng sẽ bị cất đi khỏi sản nghiệp của tổ phụ chúng tôi mà đem qua sản nghiệp của chi tộc nào chúng gia nhập. Như thế phần đất đó đã bắt thăm cho chi tộc chúng tôi sẽ bị lấy đi.
Numb VietNVB 36:4  Đến năm hân hỉ cho dân Y-sơ-ra-ên, sản nghiệp của chúng sẽ bị đem qua cho chi tộc mà chúng gia nhập. Như thế sản nghiệp của chúng sẽ bị truất khỏi cơ nghiệp của tổ tiên chúng tôi.
Numb VietNVB 36:5  CHÚA truyền lệnh cho Môi-se ban bố chỉ thị này cho dân Y-sơ-ra-ên: Chi tộc của con Giô-sép nói có lý.
Numb VietNVB 36:6  Đây là điều CHÚA phán dạy về các con gái của Sê-lô-phát, chúng muốn kết hôn với ai tuỳ ý nhưng chỉ hãy kết hôn trong các chi chi tộc trong chi tộc của tổ phụ mình.
Numb VietNVB 36:7  Không một sản nghiệp nào trong dân Y-sơ-ra-ên được chuyển từ chi tộc này qua chi tộc khác vì mỗi công dân Y-sơ-ra-ên sẽ giữ đất đai của chi tộc mình thừa hưởng từ tổ tiên.
Numb VietNVB 36:8  Mỗi người con gái được thừa hưởng đất đai trong bất cứ chi tộc nào của Y-sơ-ra-ên cũng phải kết hôn với người thuộc trong chi tộc của cha mình ngõ hầu mỗi công dân Y-sơ-ra-ên được sở hữu sản nghiệp của tổ phụ mình.
Numb VietNVB 36:9  Không một sản nghiệp nào được chuyển từ chi tộc này qua chi tộc khác, vì mỗi chi tộc Y-sơ-ra-ên phải giữ đất đai mình đã thừa hưởng.
Numb VietNVB 36:10  Vậy các con gái của Sê-lô-phát làm theo điều CHÚA phán dạy Môi-se.
Numb VietNVB 36:11  Các con gái của Sê-lô-phát: Mách-đa, Thiệt-sa, Hốt-la, Minh-ca và Nô-a đều kết hôn với anh em chú bác của mình.
Numb VietNVB 36:12  Các cô ấy kết hôn trong vòng các chi chi tộc của dòng dõi Ma-na-se con trai Giô-sép, nên sản nghiệp họ vẫn còn lại trong chi tộc và chi chi tộc của cha mình.
Numb VietNVB 36:13  Đó là các mệnh lệnh và qui luật mà CHÚA dùng Môi-se ban hành cho dân Y-sơ-ra-ên trong các đồng bằng Mô-áp bên bờ sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô.